mang, vội rút về nước. Hai người con của Chế Bồng Nga là Chế Ma
Nô Đà Nan và Chế Sơn Nã chạy sang nước ta xin tị nạn, đều được đối
xử tử tế, phong cho chức quan cao cấp (Chế Ma Nô Đà Nan được
phong làm Hiệu chính hầu, Chế Sơn Nã được phong chức Á hầu).
Tháng 2 năm Tân Mùi (1391), Quý Ly đem quân đi tuần Hóa Châu,
xây sửa thành trì. Tháng 3, Quý Ly sai Hoàng Phụng Thể đem quân đi
tuần vào đất Chiêm. Bị mai phục, quân Phụng Thể tan vỡ. Phụng Thể
bị Chiêm Thành bắt, phải dùng mưu kế để trốn. Tháng 4, Quý Ly rút
quân về.
Đến tháng 8 năm Bính Tý (1396), quân Trần lại tiến công Chiêm
Thành, bắt được tướng Chiêm là Bố Đông đem về nước.
Từ khi Chiêm vương Chế Bồng Nga mất, Chiêm Thành yếu thế,
bước dần vào thời kỳ suy vong...
2. Việc giao thiệp với Trung Quốc
Năm Mậu Thân (1368), bên Trung Quốc, Minh Thái Tổ diệt xong
nhà Nguyên, lên ngôi ở Kim Lăng (1368 - 1399). Khi nhà Minh đã
nắm được toàn cõi Trung Quốc thì cũng là lúc họ bắt đầu dòm ngó
nước ta. Họ thường cho sứ bộ qua lại, nay yêu cầu thứ này, mai đòi
thứ khác, không ngoài mục đích cố tình làm eo làm sách để chuẩn bị
xâm lăng. Đó là thói quen lâu đời của các triều đại phương Bắc đối với
nước ta.
Tháng Giêng năm Canh Tuất (1370), vua Minh tự làm một bài chúc
văn, sai Diêm Nguyên Phục là đạo sĩ cung Triều Thiên, đem lễ vật trâu
và lụa sang tế thần núi Tản Viên và các thủy thần sông Lô. Tháng 4,
Diêm Nguyên Phục vào kinh đô nước ta làm lễ tế xong, khắc bài văn
vào đá ghi việc đó rồi từ biệt về nước.
Từ khi mới lên ngôi, nhà Minh đã phái sứ bộ đi các phiên quốc
khuyến dụ sang triều cống. Vua nước Chiêm là Chế Bồng Nga đã đem
lễ vật gồm voi, hổ và các thứ phương vật sang triều cống nên được nhà
Minh công nhận cho làm vua nước Chiêm. Năm 1370, khi nước ta cử