Và, bản thân Tây Đô cũng đủ tiêu chuẩn một kinh thành phòng ngự
thủ hiểm. “Những vòng đai phòng ngự tự nhiên ở vòng ngoài bằng
đồi, núi, sông, kết hợp với La thành bằng tre gai ở giữa và vòng trong
là con hào vừa rộng vừa sâu có rải chông, hẳn là những chướng ngại
đáng sợ đối với giặc.
Đó là chưa kể tới bản thân tường thành có độ dày bề mặt tới 4 - 5m,
chân rộng hàng chục mét với hai lớp đá và đất, cao tới 5 - 6m”
II. MỞ RỘNG BỜ CÕI VẾ PHƯƠNG NAM
Năm 1390, vua Chiêm là Chế Bồng Nga tử trận trong cuộc thủy
chiến với Đại Việt. Bắt đầu từ đó thế lực Chiêm Thành suy yếu hẳn.
Quân Chiêm rút lui, không còn hoạt động quân sự tấn công nước ta
nữa.
Vào cuối đời Trần, lãnh thổ nước ta mở rộng đến miền Thuận Hóa
(Thuận châu và Hóa châu) vốn là đất châu Ô và châu Lý của Chiêm
Thành đã nhường cho nhà Trần năm 1306, tức vùng Quảng Trị, Thừa
Thiên ngày nay. Thực hiện chủ trương “dùng người Chiêm trị người
Chiêm”, năm 1397, chính quyền nhà Trần đã cử tướng Chiêm là Chế
Đa Biệt làm Kim ngô vệ tướng quân, cho lấy họ Việt (Đinh), tên Việt
(Đại Trung) và cho về trấn thủ Hóa châu để giữ đất Chiêm Thành.
Hai năm sau khi lên ngôi, năm 1402, họ lại xuất quân hướng về phía
nam, tiến đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm là Ba Đích Lại (1400 -1441)
hoảng sợ, cho cậu là Bố Điền sang dâng nộp đất Chiêm Động (Quảng
Nam ngày nay) để xin bãi binh. Quý Ly bắt phải dâng cả đất Cổ Lũy
(Quảng Ngãi).Vua Chiêm sợ nên phải đồng ý. Nhà Hồ tiếp thu cả hai
phần đất Chiêm ấy, lập thành lộ mới; đặt tên là lộ Thăng Hoa, chia ra
làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa; cử Nguyễn Cảnh Chân làm An
phủ sứ lộ Thăng Hoa. Cũng năm này (1402), vua Hồ lại cử con của
Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan làm Cổ Lũy Huyện thượng hầu,
trấn giữ hai châu Tư, Nghĩa để chiêu dụ, vỗ về dân Chiêm
. Từ sau
khi vùng đất này sáp nhập vào lãnh thổ nước ta, một số người Chiêm