thái miếu thờ họ ngoại của vua Hán Thương (tức vua Trần Minh Tông
và Trần Nghệ Tông). Ngoài ra, trong thành còn có những nhà kho, nhà
ngục, trại gia binh... Xung quanh thành ngoài 4 bức tường thành bằng
đá, kế đó là vòng hào vừa rộng vừa sâu bọc quanh 4 mặt tường thành
phía ngoài. Bên ngoài cùng là một vòng thành bằng lũy tre gai dày
đặc. Nhìn chung, thành Tây Đô mang tính chất một công trình kiến
trúc quân sự lớn, ở nơi hiểm địa
Không phải chỉ đời sau mà ngay từ lúc chuẩn bị, đã có nhiều ý kiến
khác nhau về việc dời đô của họ Hồ. Sử chép, trước khi có quyết định
dời đô, triều đình đã bàn bạc nhiều, Hành khiển Phạm Cự Luận có lời
khuyên nên thôi nhưng Quý Ly nói: “Ý ta đã định từ trước rồi, ngươi
còn muốn nói gì nữa!”
Lúc ấy, Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết cũng dâng thư can, đại
ý nói rằng: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều
chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (tức Thăng Long - TG) có núi Tản Viên,
có sông Lô Nhị (tức sông Hồng - TG), núi cao sông sâu, đất bằng
phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng nước, không
đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi theo
việc trước: khi ấy quân nhà Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu...
Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nước nhà. An Tôn đất
đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà
không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu:
“Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”... Quý Ly không nghe. Sau đến kỳ
xét công, Quý Ly thấy có tên Nhữ Thuyết liền nói: “Người này từng
nói cốt ở đức, không cốt ở hiểm”. Rồi phế bỏ không dùng
.
Tháng 11 năm Đinh Sửu (1397), khi vua Thuận Tông ở cung Bảo
Thanh, cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật với vua
là dời kinh đô thế nào cũng có việc cướp ngôi. Quý Ly nghe được cho
rằng viên Miếu lệnh Lê Hợp, viên Phụ đạo Hữu Lũng là Lương Ông
cùng đồng mưu nên đem giết cả