Xem như vậy, ngay từ đầu, việc dời đô đã có nhiều ý kiến và dư
luận không đồng tình, song Quý Ly vẫn nhất quyết dời. Thành nhà Hồ
ở Thanh Hóa chính thức được coi là kinh đô nước ta (Tây Đô) từ đó
đến khi vương triều Hồ suy đổ (1407)
Những người chỉ trích việc dời đô từ trước đến nay đồng quan điểm
cho rằng thực hiện việc đó nhằm để Hồ Quý Ly tiến tới cướp ngôi nhà
Trần, tách kinh đô khỏi vùng ảnh hưởng sâu xa của họ Trần, đó là một
sự chuẩn bị cho âm mưu thoán nghịch, cướp ngôi một cách phi nghĩa,
thậm chí có người cho đó là một việc làm vừa ngu xuẩn vừa vô đạo!!!
Song nếu thấy được việc đoạt ngôi vua từ tay họ Trần chuyển sang
họ Hồ là một hành động tích cực để gánh vác trách nhiệm trước lịch
sử, thì việc dời đô nhằm phục vụ cho một ý đồ như vậy cũng là một
trong những việc làm cần thiết, đáp ứng yêu cầu khách quan lúc bấy
giờ... Trong việc chuẩn bị phòng vệ đất nước trước ý đồ xâm lược của
phương Bắc ngày càng cấp bách thì vị trí địa lý của Tây Đô có những
điều kiện đáp ứng yêu cầu mang tính chiến lược về mặt quân sự. “Vì
tính chất chiến lược nên giữ lấy
Thanh - Nghệ là một điều hoàn toàn đúng của những nhà quân sự
có tài. Thanh Hóa là cái yết hầu. Dùng Thanh Hóa làm bàn đạp tiến ra
có thể lấy được Thăng Long, lui về có thể giữ được cái thế cầm cự và
có đủ thì giờ để chuẩn bị nuôi dưỡng lực lượng. Ở đây ta cũng thấy rõ
cái lỗi lạc của viên tướng Hồ Quý Ly”
. “Tây Đô là một vùng trung
du lắm sông nhiều núi. Đặc biệt, Tây Đô là nơi “đất chật hẹp, hẻo
lánh, cuối nước đầu non”, được án ngữ bốn mặt bằng bốn quả núi lớn:
phía bắc có núi Thổ Tượng, phía đông có núi Hắc Khuyển, phía tây có
núi Ngưu Ngọa và phía nam có núi Đốn Sơn. Ngoài những bức bình
phong tự nhiên như vậy, Tây Đô còn được che chắn bởi những dòng
sông. Sông Bưởi từ phía đông chảy tới hội tụ với sông Mã từ phía tây
chảy qua (...). Nhìn rộng ra mặt Tây và mặt Bắc, Tây Đô là cả một
vùng rừng núi rộng mở của xứ Thanh, địa bàn chiến lược cực kỳ quan
trọng trong nghệ thuật quân sự của nhiều thời đại trong lịch sử”