Thiên Ưy, Hoàng Phụng Thế quản lĩnh quân Thánh Dực, Trần Thế
Đăng quản lĩnh quân Thần Dực, Bùi Bá Ngang quản lĩnh quân Thần
Sách, Nguyễn Kim Ngao quản lĩnh quân Thần Vũ, Trần Trung Hiếu
quản lĩnh quân Bảo Tiệp, Trần Bang quản lĩnh quân Long Tiệp, Lê
Mật Ôn quản lĩnh quân Hoa Ngạch, Đỗ Dã Kha quản linh quân Thị
Vệ, Nguyễn Tiểu Luật quản lĩnh quân Thiên Trường, Nguyễn Bát
Sách quản lĩnh quân Thiết Sang, Nguyễn Vân Nhí quản lĩnh quân
Thiết Giáp, Nguyễn Hô và Lê Lặc quản lĩnh quân Thiết Liêm, Nguyễn
Thánh Du quản lĩnh quân Thiết , Trần Quốc Hưng quản lĩnh quân Ô
Đồ
– Công cuộc cải cách quân đội được thực hiện triệt để khi quyền chỉ
huy tối cao quân đội được chuyển sang tay họ Hồ. Để tránh bất công
trong việc tuyển quân cũng là để tăng cường nguồn nhân lực sung vào
quân đội, tháng 4 năm Tân Tỵ (1401), vua Hồ ra lệnh kiểm tra dân số
toàn quốc bằng cách lập lại sổ hộ tịch trong cả nước, ghi tên hết vào sổ
những nhân khẩu từ 2 tuổi trở lên, để lấy số đó làm thực số, làm cơ sở
tuyển quân. Khi làm sổ xong, con số những dân đinh từ 15 đến 60 tuổi
được phát hiện tăng gấp bội so với trước. Công việc tuyển quân thuận
lợi, số quân tuyển được càng nhiều...
Năm 1404, đời vua Hán Thương, định lại quân hiệu, chia quân tả và
hữu, dùng tên cầm thú để đặt quân hiệu (như Phượng Hoàng, Kỳ
Lân...) chọn các quan văn võ người tôn thất (cùng họ ) để quản lĩnh
Tháng 9 năm Ất Dậu (1405), quy định lại tổ chức biên chế quân
đội. Quân đội chia ra thành nhiều quân. Mỗi quân gồm nhiều vệ. Có 4
loại binh chủng: cấm quân, đại quân, cấm vệ quân (vệ quân) và thủy
quân.
Cấm quân có 20 vệ, gồm 12 vệ quân Nam ban và Bắc ban và 8 vệ
quân Điện hậu Đông và Tây. Mỗi vệ có 18 đội; mỗi đội có 18 người.
Tổng cộng số quân trong 12 vệ Nam, Bắc là 4.320 người, trong 8 vệ
Đông, Tây là 2.820 người
.