(còn gọi là Thần cơ sang pháo) - một loại súng bắn đạn có thuốc cháy
do người con trai trưởng của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng chế tạo.
Hồ Nguyên Trừng đã cải tiến những kỹ thuật chế súng sẵn có, sáng
tạo ra phương pháp chế súng Thần cơ, phương pháp này đã được
Trung Quốc học tập và áp dụng rộng rãi. Vì thời đầu nhà Minh không
biết đúc súng, đó là sự thật mà thiên Binh chế khí trong Minh sử đã
thừa nhận. Nguyên Trừng đã truyền kỹ thuật đúc súng nước ta vào
Trung Quốc. Minh sử viết: “Đến đời vua Thành Tổ nhà Minh (1403 -
1424) đánh nước Giao Chỉ, học được phép đúc Thần cơ sang pháo, lúc
bấy giờ mới đặt ra đội súng Thần cơ. Phép chế súng, dùng đồng đỏ,
một nửa là đồng còn sống (đồng đỏ), một nửa là đồng đã nấu lẫn lộn
(đồng thau). Cũng có thể dùng sắt mà đúc... Súng Thần cơ có nhiều
cỡ, lớn nhỏ không đều, lớn thì kéo bằng xe (sau gọi là pháo hay súng
thần công), nhỏ thì dùng giá gỗ hay vác lên vai (sau gọi là điều thương
hay súng hỏa mai), súng lớn lợi cho việc chiếm giữ (súng cộng đồng),
súng nhỏ lợi cho việc chiến đấu (súng cá nhân), tùy tiện mà dùng”.
Về việc sử dụng súng Thần cơ, Minh sử lại viết: “Thời Vĩnh Lạc,
vua Minh thân chinh Mạc bắc (đánh Mông Cổ). Khi giặc kéo đến, bèn
đem Thần công của nước An Nam ra đánh, giặc mới rút lui”. Sách
Thông ký cũng viết: “Lúc đầu, quốc triều (chỉ nhà Minh) chỉ có 5 quân
doanh, ấy là Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Năm Vĩnh Lạc xưa (1403 -
1424) lấy 3.000 quân kỵ rợ Hồ đặt dưới lá cờ rồng, lập ra Tam thiên
doanh. Sau khi Nam phạt, học được phép chế thần công bắn bằng tên
lửa thì lập ra Thần cơ doanh”
.
Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, trong các cuộc chiến tranh trên thế
giới, quân sĩ vẫn còn sử dụng vũ khí cá nhân bằng gươm giáo. Giá mà
họ Hồ giữ ngôi được một thời gian lâu dài hơn để có thời gian chỉnh
đốn mọi việc trong nước, hoàn thiện và chế tạo thêm được nhiều súng
Thần cơ với đạn dược đầy đủ, thì quân đội nước ta thời bấy giờ thật
hùng mạnh, có thể vào bậc nhất so với các nước trong khu vực Đông
Á...