Đại quân là lực lượng chủ lực quân, gồm có cả thảy 30 đội (540
người); Trung quân có 20 đội (360 người); Doanh có 15 đội; Đoàn có
10 đội.
Cấm vệ quân (Vệ quân) phụ trách trong hoàng cung, có 5 đội cấm
vệ đô.
Tất cả đặt dưới sự thống lĩnh của một Đại tướng quân
.
2. Tăng cường lực lượng thủy quân
Cho đến thời nhà Hồ, quân thủy nước ta vẫn chưa tách hẳn thành
một bộ phận độc lập so với quân bộ. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào
địa hình và truyền thống tác chiến của quân đội nói chung
Để tăng cường và chuyên hóa tổ chức lực lượng thủy quân, năm
1404, Hồ Quý Ly sai đóng những chiến thuyền lớn theo kiểu mới, gọi
là thuyền Cổ Lâu (“Cổ Lâu thuyền tải lương”). Tuy tiếng gọi là thuyền
chuyên chở lương thực nhưng thực chất là thuyên chiến, đóng bằng
sắt, bên trên có đường sàn đi lại, bên dưới hai người chèo một mái
chèo, rất tiện cho việc chiến đấu. Lúc xông trận, một toán quân cứ việc
chèo để tiến, thoái; còn một toán khác chuyên lo chiến đấu.
Việc phòng ngự trên mặt thủy cũng được tiến hành ráo riết. Ở
những cửa biển và những chỗ hiểm yếu trong sông lớn, vua Hồ sai lấy
gỗ đóng cọc để ngăn tàu bè của giặc.
3. Cải tiến vũ khí, trang bị
Hồ Quý Ly rất quan tâm đến việc cải tiến vũ khí. Tháng 6 năm Ất
Dậu (1405), tại Tây Đô (Thanh Hóa), vua Hán Thương cho đặt 4 kho
chứa vũ khí và lập công binh xưởng; không kể là quân hay dân, hễ ai
giỏi nghề thì được tuyển nhận vào làm việc chế tạo gươm, súng.
Vũ khí trang bị thời kỳ này đã đạt tới một bước tiến mới về kỹ thuật
quân sự. Nhà Hồ đã góp công cải cách quan trọng về quân sự trong
việc chế tạo ra các loại súng và hỏa pháo, đặc biệt là súng Thần cơ