Trong các cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, quân ta cũng đã thu
được khá nhiều voi chiến, vì vậy trong quân đội nhà Hồ đã có được
một bộ phận tượng binh đáng kể. Thủy binh được trang bị thêm nhiều
chiến thuyền lớn, trong đó có loại thuyền Cổ lâu như nói trên...
4. Xây dựng hệ thống phòng thủ và chuyển vận
Trước khi giặc Minh xâm lược nước ta, họ Hồ đã chuẩn bị sẵn một
hệ thống phòng thủ đất nước.
Việc xây thành Tây Giai (tức Tây Đô) ở mạn rừng núi Thanh Hóa
với quy mô rộng lớn nhằm thủ hiểm và phòng ngự khi Đông Đô (tức
Thăng Long) thất thủ. Bên cạnh đó, tháng 9 năm Ất Dậu (1405), nhà
Hồ cho xây đắp thành Đa Bang kiên cố ở Cổ Pháp (Sơn Tây) để che
chở cho Thăng Long và cả một hệ thống công trình phòng thủ có quy
mô lớn, dài gần 400 km, chạy suốt từ núi Tản Viên, men theo sông Đà,
sông Hồng, sông Luộc, đến cửa sông Thái Bình. Đó là một hệ thống
chướng ngại vật gồm những bãi cọc, những xích sắt cùng với các đồn
quân tại khắp các cửa sông, cửa nguồn, quan ải... Nhà Hồ đã kế thừa
những kinh nghiệm xây dựng các trận địa phòng thủ của tổ tiên các
thời trước. Có thể nói, đối với lịch sử quân sự, đây là thời kỳ xây dựng
được một công trình phòng ngự có quy mô lớn nhất, trên một chính
diện rộng, chiều sâu lớn và đồ sộ gấp nhiều lần phòng tuyến Như
Nguyệt thời Lý chống Tống
.
Vì quan tâm củng cố các tuyến phòng thủ nên vua Hồ thường đích
thân di hành đến tận nơi quan sát từng địa thế hiểm yếu, có chuyến đi
kéo dài nhiều ngày. Tháng 7 năm Ất Dậu (1405), Quý Ly và Hán
Thương đi tuần tra, xem xét núi sông và các cửa biển, ở kinh lộ, vì
muốn biết khắp nơi, nơi nào hiểm trở, nơi nào bình thường. Mãi đến
tháng 8 mới trở về
Bên cạnh việc xây dựng các công trình quân sự cũng phải kể đến nỗ
lực xây dựng các trục lộ giao thông, kênh đào. Những công trình này
vừa mang tính chất kinh tế vừa mang tính chất quân sự. Tháng 7 năm