Nitrate
Camphen
Davett thong thả đọc đi đọc lại, cặp mắt nheo nheo vài lần. Một thoáng
cau mày. “Nitrate và ammonia à? Anh biết đó có thể là gì chứ?”
Rhyme gật đầu. “Tôi nghĩ hắn đã đặt một số bom tự tạo để ngăn cản đội
tìm kiếm. Tôi nói với họ về việc này rồi.”
Davett nhăn mặt, quay lại bảng chứng cứ. “Chất camphene… Tôi nghĩ
nó từng được sử dụng cho những chiếc đèn lồng cổ. Ví dụ những chiếc đèn
thắp bằng dầu đá phiến chẳng hạn.”
“Đúng. Vậy chúng ta cho rằng nơi hắn đang giữ Mary Beth là một ngôi
nhà cổ. Được xây từ thế kỷ XIX.”
“Chắc chắn xung quanh đây có tới hàng nghìn ngôi nhà, lều lán, chuồng
trại cũ kỹ.. Cái gì nữa? Bụi đá vôi… Cái này không thu hẹp được phạm vi
tìm kiếm lắm. Có một rặng núi đá vôi chạy dài suốt quận Paquenoke. Nó
từng là nguồn lợi lớn cho mọi người ở đây.” Davett đứng lên, di ngón tay
chéo trên tấm bản đồ từ mép phía nam đầm lầy Sầu Thảm sang phía tây
nam, từ ô L-4 sang ô C-14. “Anh có thể tìm thấy đá vôi ở bất cứ chỗ nào
dọc theo đường này. Chứng cứ ấy không mấy hữu ích. Nhưng…” Ông ta
bước lùi lại, khoanh hai tay. “Phốt phát thì hữu ích đấy. Bắc Carolina là một
nguồn cung cấp phốt phát lớn, nhưng nó không được khai thác ở xung
quanh đây. Nơi khai thác ở xa hơn về phía nam. Vậy, kết hợp với chất tẩy,
tôi cho rằng hắn đã ở gần khu vực nước bị ô nhiễm.”
“Khỉ gió”, Jim Bell nói. “Như thế có nghĩa hắn ở chính trên sông
Paquenoke.”
“Không”, Davett đáp lời. “Sông Paquo sạch sẽ. Nó thẫm màu vì lấy
nước từ đầm lầy Sầu Thảm và hồ Drummond.”
“Ôi, đó là thứ nước thần”, viên cảnh sát trưởng nói.
“Thế là thế nào?” Rhyme hỏi.
Davett giải thích: “Một số người già ở đây gọi nước của đầm lầy Sầu
Thảm là nước thần. Nó chứa đầy chất tannic acid tiết ra từ lá bách và lá
bách xù mục. Chất này tiêu diệt vi khuẩn nên nước để được lâu – trước khi