có tủ lạnh người ta từng sử dụng nó làm nước uống trên thuyền buồm.
Người ta từng nghĩ nó có các đặc tính kỳ diệu.”
“Vậy…”, Rhyme nói, chẳng bao giờ quan tâm lắm tới những huyền
thoại địa phương. “Nếu không phải là sông Paquenoke, dấu vết của phốt
phát kia sẽ đặt hắn vào khu vực nào?”
Davett nhìn Bell. “Hắn bắt cóc cô gái thứ hai ở đâu?”
“Cùng chỗ với Mary Beth. Bến tày kênh Nước đen.” Bell chạm vào tấm
bản đồ, rồi di ngón tay lên phía bắc tới ô H-9. “Vượt sang bên kia sông, đến
một cái chòi săn khoảng vị trí này, rồi tiếp tục đi về phía bắc nửa dặm. Rồi
đội tìm kiếm mất dấu vết. Họ đang chờ chúng ta chỉ đường.”
“Ồ, thế thì chẳng còn nghi ngờ gì nữa”, Davett nói với sự tự tin đáng
khích lệ. Nhà doanh nhân di ngón tay sang phía đông. “Hắn đã vượt lạch
Đá. Ở vị trí này. Thấy không? Một số thác nước đằng đó sủi bọt như bia, vì
trong nước chứa rất nhiều chất tẩy và phốt phát. Nó bắt đầu đổ ra gần thác
Hobeth và có đến hàng tấn. Người thị trấn ấy không biết gì về quy hoạch và
phân vùng.”
“Tốt”, Rhyme nói. “Bây giờ, sau khi hắn đã sang bên kia con lạch, ông
cho rằng hắn sẽ đi theo hướng nào?”
Davett lại đọc bảng chứng cứ. “Nếu anh phát hiện được lá thông bị cắt
gãy, tôi phải phỏng đoán rằng hắn đi theo hướng này”. Ông ta đập đập tay
vào ô I-5 và ô J-8. “Thông thì có ở khắp Bắc Carolina, nhưng xung quanh
đây hầu hết là các cánh rừng sồi, tuyết tùng cổ thụ, bách và bạch đàn. Cánh
rừng thông lớn duy nhất mà tôi biết nằm ở phía đông bắc. Đây. Trên đường
đến đầm lầy Sầu Thảm”. Davett đăm đăm nhìn hai bảng chứng cứ lâu hơn
rồi lắc đầu. “Tôi e mình chẳng thể nói thêm được mấy nữa. Anh đã cử đi
mấy đội tìm kiếm rồi?”
“Một đội”, Rhyme trả lời.
“Cái gì?” Davett quay sang anh, cau mày. “Chỉ một đội? Anh đang đùa.”
“Không”, Bell nói, giọng tự vệ trước cuộc kiểm tra chéo cứng rắn của
Davett.
“Chà, một đội đông chừng nào?”
“Bốn cảnh sát”, Bell trả lời.