việc tồn tại thôi. Đấy là những bài học hắn đã học. Đấy là sự phát triển của
hắn ở tuổi ấu thơ. Nó đáng buồn, tuy nhiên nó chẳng phải vấn đề của chúng
ta.”
“Anh biết cái bẫy hắn đã đặt. Cái bẫy cành thông ấy?”
Rhyme gật đầu.
“Nó chỉ sâu hai feet. Và cái tổ ong bắp cày bên trong thì sao? Không có
gì. Không có con ong bắp cày nào cả. Và cái bẫy ammonia không được bố
trí để làm hại ai. Chỉ để cảnh báo hắn là một đội tìm kiếm đang đến gần cối
xay.”
“Đây không phải các bằng chứng thực tế, Sachs ạ. Không phải các bằng
chứng như tờ khăn giấy thấm máu chẳng hạn.”
“Hắn bảo rằng hắn từng thủ dâm. Rằng Mary Beth bị đập đầu và hắn
dùng tờ khăn giấy ấy lau vết thương. Dù sao, nếu hắn đã cưỡng hiếp cô gái,
một tờ khăn giấy sẽ có ích lợi gì?”
“Để chùi sạch sẽ sau đó.”
“Chẳng phù hợp với mô tả nào về tội phạm cưỡng dâm em từng biết cả.”
Rhyme tự trích dẫn mình, từ lời nói đầu cuốn sách giáo khoa về hình sự
học anh viết: “Sự mô tả là người hướng dẫn. Chứng cứ là…”
“Chúa Trời”, Sachs đọc nốt. “Được rồi, thế thì - có biết bao nhiêu dấu
chân ở hiện trường vụ án. Hãy nhớ rằng hiện trường vụ án bị xéo nát. Một
số dấu chân có thể là của gã đàn ông mặc quần yếm.”
“Không có các dấu vân tay khác trên vũ khí giết người.”
“Hắn khẳng định gã đàn ông đó đã đi găng tay”, Sachs phản công.
“Nhưng cũng không có vân da.”
“Có thể là găng tay vải. Để em kiểm tra và...”
“Có thể, có thể... Thôi nào, Sachs, đây đơn thuần là sự phỏng đoán.”
“Nhưng anh nên nghe những lời hắn nói về Mary Beth mới phải. Hắn lo
lắng cho cô gái ấy.”
“Hắn đang đóng kịch đấy. Quy tắc thứ nhất của anh là gì?”
“Anh có nhiều quy tắc lắm”, Sachs lẩm bẩm.
Rhyme tiếp tục chẳng chút bối rối: “Đó là quy tắc không thể tin tưởng
vào nhân chứng được.”