chúng ta biết gì nhiều hơn lập luận rằng, chính phủ nên ngăn cản việc xuất
khẩu tất cả những tác phẩm nghệ thuật vì chính phủ nên làm điều đó.)
Một lập luận phải nêu ra những gì đã được biết hay chấp nhận, để chứng
minh những thứ chưa được biết hay chấp nhận. Điệp nguyên luận mang
tính ngụy biện, vì nó phụ thuộc vào cái kết luận chưa được chứng minh.
Kết luận của lập luận được sử dụng trong tiền đề hỗ trợ kết luận đó thường
dưới lớp áo ngụy trang.
Tất cả lập luận đi chứng minh điều chưa được chứng minh phải được mổ xẻ
cẩn thận để tránh những ngụy biện Điệp nguyên luận ẩn giấu bên dưới. Tất
cả những lập luận ủng hộ các đường lối tư tưởng, tôn giáo hay giá trị đạo
đức đều có một điểm chung là, chúng đều cố gắng thuyết phục những
người đa nghi. Chúng cũng có một điểm chung khác là Điệp Nguyên Luận
sinh sôi nảy nở trong các bằng chứng.
Mọi thứ đều có thể được xác định theo mục đích của chúng.
(Đừng bao giờ ngạc nhiên khi một thảo luận như thế này kết thúc với việc
“chứng minh” sự tồn tại của thực thể tồn tại có mục đích. Nếu sự vật đã
được đồng ý từ ban đầu là có mục đích, thực thể tồn tại cái mà mục đích đã
được chứng minh đó đã được chấp nhận rồi. Đây chính là Điệp nguyên
luận trong lớp vỏ ngụy trang.)
Khi sử dụng Điệp nguyên luận, bạn nên quan tâm tới việc che giấu giả định
kết luận bằng cách chọn lựa ngôn từ khéo léo. Những ngôn từ đặc biệt hữu
dụng là các từ ngữ mà bản thân chúng đã chứa đựng giả định. Những ngôn
từ như “mục đích” nằm trong nhóm này. Các triết gia luôn tham gia trận
chiến với một kho đầy những ngôn từ như thế, đặc biệt khi họ cố giảng cho
chúng ta về cách thức cư xử. Những trách nhiệm mà họ mong muốn gán
lên chúng ta được che giấu trong những ngôn từ như “lời hứa”. Nghe có vẻ
thẳng thắn nhưng bên dưới ý nghĩa của từ này là từ “nên”.