Alexander và Antipater, xem E. Badien, JHS 1961, từ tr.36 và G. T.
Griffith, Proceedings of the African Classical Associations 1965, từ tr.12.
Có một trang bị mất kể từ dấu (*)
Xem Plutarch, Eumenes 2.
Từ Opis tới Ecbatana (Hamadan).
Về ngựa Nesaea, xem Herodotus 7.40.2; Strabo 11.13.7. Diodorus
(17.110.6) đưa ra số liệu có chút khác biệt; số lượng ngựa trước kia được
chăn thả ở đồng bằng Nesaea là 160.000 con và chỉ còn khoảng 60.000 con
khi Alexander đặt chân tới vùng này.
Nhiều sử gia thuật lại rằng Nữ hoàng Amazon đã tới thăm Alexander tại
Hyrcania hoặc khu vực gần Jaxartes; Diodorus 17.77.1, Curtius 6.5.24-32,
gọi nữ hoàng là Thalestris. Plutarch (Alexander 46) đã đưa ra một danh
sách dài các sử gia chấp nhận hoặc phủ nhận câu chuyện này.
Xenophon có nhắc tới trang bị vũ khí của nữ tộc Amazon trong Anabasis
(4.4.16) nhưng điều đó không có nghĩa là ông đã gặp bất cứ ai trong số họ.
Không một sử gia cổ đại nào nghi ngờ sự tồn tại của nữ tộc Amazon trong
quá khứ, kể cả người hoài nghi nhất là Strabo (11.5.3).
Xem Plutarch, Theseus 27.
Trận chiến thứ hai là trận Marathon vào năm 490. Cả hai bức tranh đều do
Micon, một người nổi danh vào khoảng năm 460, vẽ và được trưng bày tại
Stoa Poikile ở Athens. Xem Pausanias 1.15, 8.11; Aristophanes, Lysistrata
678. Chúng ta có thể hiểu rằng “Cimon” ở đây nghĩa là “Micon”, cho dù rất
có thể đây là sai sót của Arrian.
Xem Herodotus 4.110-17; 9.27.
Xem Lysias, Epitaphios 1; Isocrates, Panegyricus 19; Plato, Menexenus
239B.
Xem Plutarch, Alexander 72.1; Diodorus 17.110.7-8.
Xem Plutarch, sđd.
Về sự ganh đua của Alexander với Achilles, và về mối quan hệ của ngài
với Hephaestion, xem Quyển một. Về sự tiếc thương của Achilles trước cái
chết của Patroclus, xem Homer, Illiad 23.141, 152.