Vị hôn phối của Ngài là Bùi Thị Thân, trước sau sinh hạ 9 người con,
hai gái lớn là Ngô Thị Ngữ và Ngô Thị Hồng đều mất sớm, còn lại 7 người
: Ngô Thị Yến Ngọc, Ngô Thị Nguyệt, Ngô Văn Nhựt, Ngô Văn Tinh, Ngô
Tường Vân, Ngô Thanh Phong và Ngô Khai Minh.
Nặng lòng đạo đức, Ngài được Cao Đài Tiên ông giáng cơ truyền đạo
cho, và khởi sự ăn chay trường, hành đạo từ mùng 1 Tết năm Tân Dậu (8
février 1921), thiết lập đàn cơ tại chùa Quan Âm nơi Dương Đông Phú
Quốc, chùa nầy lâu ngày đã hư. Năm 1961, đệ tử Ngài dựng ngôi chùa Cao
Đài tại đấy để niệm nơi phát nguyên Cao Đài Đại đạo và cùng lúc dựng cái
am để kỷ niệm Quan Âm tự).
Ngài đổi về Sài Gòn khoảng năm 1924 và đến cuối năm 1925 thì vâng
mạng Đức Cao Đài Tiên ông Đại Bồ Tát Ma ha tát đem mối đạo truyền ra.
Đã từ lâu, khi ngài hầu đàn Hiệp Minh ở Cái Khế, Tiên ông cũng vẫn
đã giáng cơ cho Ngài nhiều bài thơ dạy đạo thâm trầm (xin xem bài « Đàn
tiên Cái Khế » sau đây). Kịp khi Ngài sắp đổi về Sài Gòn, Đức Cao Đài có
cho Ngài một bài thi :
Kín ngoài rồi lại kín trong
Đường xa phong cẩm thưởng lòng để vui
Công đầu chịu cực đừng lui
Thiên tào thăng thưởng đạo mùi ngọt ngon
Ba năm lòng sáng như son
Trèo non xuống biển vuông tròn công phu
Chớ phiền mỏi mệt lòng tu
Trăng kia mây vẹt Đường Ngu gặp liền
Mưa toan vụ thấy thanh Thiên
Các đào rõ biết mối truyền chánh tông
Giờ này thầy điểm thâm công
Ngày sau con sẽ cỡi rồng về nguyên