vua Hàm Nghi nhưng ông không dám thi hành. Rồi ông lặng lẽ tìm đường
về Huế.
Tiên Động trở thành căn cứ chính của nghĩa quân, là nơi quy tụ, nơi
qua lại bàn mưu tính kế, của nhiều người Cần Vương chống Pháp ở Bắc
Kỳ. Đó là do sau khi Tá Viêm không dám nhận chức, vua Hàm Nghi bèn
phong cho Quang Bích là Thuần trung tướng, Hiệp thống quân vụ, nắm
việc quân toàn Bắc Kỳ. Lại cho Bích kiêm chức Khâm sai, thừa mệnh vua
trông coi việc nước ở toàn kỳ. Ông được vua cho đặc quyền chọn người
trao chức vụ: quan văn từ Bố chính, Án sát; quan võ từ Đề đốc, Lãnh binh
trở xuống.
Nhận trọng trách như thế, Quang Bích lo toan làm việc ngày đêm,
không nề mệt mỏi. Ông giao cho người học trò thân cận là Trần Ngọc Dư,
từ vùng cửa Ba Lạt lên đây, làm việc liên hệ với các quan viên theo chiếu
Cần Vương và các thủ lĩnh nghĩa quân. Cùng họ xét việc, chọn người, rồi
đề đạt với quan Khâm sai phong chức mới.
Những viên thủ lĩnh nghĩa quân gần Tiên Động được phong chức sớm:
Đề Hoan, Tán Áo, Lãnh Doãn... Cai tổng Thúy (tức Kiều) cũng được
phong Đề đốc... Liền sau đó phong cho những người ở xa hơn: Đề Vân,
Đốc Tít, Đốc Ngữ, Lãnh Cồ...
Quang Bích giao cho Đề Hoan làm tham mưu quân vụ: nắm tình hình
lực lượng nghĩa quân toàn Bắc Kỳ để truyền đạt chủ trương. Đặt hệ thống
liên lạc từ trên xuống dưới để giao lưu tin tức chiến đấu. Lập mạng lưới
thám sát, nắm tình hình giặc; thâm nhập hàng ngũ lính ngụy, lập mưu đánh
địch từ trong ra...
Các quan văn hiện diện ở Tiên Động: Nguyễn Tử Ngôn, Nguyễn Tôn
Hoàng, Phạm Văn Địch, Phùng Khắc Nhuận... có sự hướng dẫn của Tán
Áo, người địa phương, tỏa ra liên hệ với các chức dịch tổng lý, châu bản,
tiến hành thu thuế, tuyển quân...