súng của quân triều đình để lại. Ông chợt nhớ bức thư của Nguyễn Quang
Bích gửi cho ông nói về súng đạn. Mặc dù Pháp và Thanh đã ký hiệp ước
ngăn chặn, các quan Tàu vùng biên giới vẫn để lọt vũ khí sang nước ta
bằng nhiều cách. Rồi ông vụt nghĩ tới một chuyến sang Tàu. Hồi ông đánh
giặc Khách, có những viên quan Tàu giao thiệp với ông, nay có người vẫn
đương chức. Ông sang đấy có thể nhờ họ viện trợ phần nào.
Càng nghĩ ông càng thấy cần phải sang Tàu một chuyến. Lúc này
nghĩa quân khắp Bắc Kỳ, Trung Kỳ nổi dậy, nhưng ông không liên hệ được
với họ. Chỉ có Quảng Bình, Hà Tĩnh có tin tức qua lại với ông. Các thủ lĩnh
phần nhiều mạnh ai nấy đánh. Ông như người tổng chỉ huy mà không nắm
được quân. Ông cố tìm cách liên lạc ra các tỉnh khác, nhưng lính chạy giấy
quá ít. Các thủ lĩnh ở xa không biết vua ở đâu mà tâu cáo về. Trần Xuân
Soạn được ông cử ra Thanh Hóa, nhưng chưa có tin trở lại. Thêm nỗi lo
vua không quen phong sương nơi rừng núi, mấy lần đau yếu mà thiếu thuốc
thang...
Hôm sau, Thuyết mật bàn với Tôn Thất Đàm, con trai lớn của ông.
Nghe xong, Đàm cũng thấy ông cần sang Tàu làm việc quan thiết đó. Đàm
nhận cùng những người ở lại thay ông hộ vệ vua.
Thuyết tâu vua Hàm Nghi, rồi bàn với mấy cận thần của vua. Họ đều
nhận việc ông đi là rất cần. Ông không thể cố thủ ở nơi núi rừng hẻo lánh
này, để trở thành người bị cô lập. Ông phải liên lạc được với Bắc Kỳ là nơi
ứng nghĩa mạnh nhất, và được tiếp tế súng đạn khá hơn. Lịch sử gần đây
còn ghi việc Nguyễn Kim có lúc bị nhà Mạc đánh bại nặng nề, phải sang
đất Ai Lao, củng cố dần đội ngũ, rồi mới trở về giúp nhà Lê trung hưng...
Ông bàn bạc với các quan rồi xin vua cho Tôn Thất Đàm thay ông lo liệu
chung việc quân; liên hệ với Lê Trực, Lê Doãn Nhạ cùng những người bảo
vệ vòng trong, vòng ngoài của căn cứ địa... Rồi ông cử người đem mật thư
đi trước, trao cho Nguyễn Quang Bích.