Sau những tháng liên tiếp chống các binh đoàn thiện chiến và các
tướng Pháp giàu kinh nghiệm chỉ huy; đấu sức với súng đạn kiểu mới và
tàu chiến Pháp, Bố Giáp mệt mỏi. Cộng thêm với bao nhiêu gian khổ ở núi
rừng, ngày vắt đêm muỗi, thiếu muối thiếu rau, cơm không đủ no, áo không
đủ ấm, Giáp bị bệnh sốt rét. Sau mỗi cơn sốt, ông lại làm việc quân với Đề
Hoan. Không bao lâu đã dựng xong doanh trại và việc bố phòng. Quân
doanh mới, nơi Quang Bích và Bố Giáp ở, được Đề Hoan bảo vệ. Đề Kiều
đóng quân án ngự đèo Ách. Đề Mạc giữ đèo Khau Phạ. Lãnh Doãn kiểm
soát ngòi Vụ. Đề Cương, Đề Dị, Đốc Nhương rải quân bảo vệ vòng ngoài.
Từ quân doanh này, Quang Bích cho người giữ vững liên lạc, với các
đội nghĩa quân các vùng xa gần. Số súng đạn, thuốc men đưa từ Vân Nam
về, ông cho phân phát tới các thủ lĩnh: Đốc Ngữ ở hạ lưu sông Đà; Cai
Kinh ở Bắc Giang; Đề Hiện, Đốc Nhưỡng ở ven sông Trà Lý; Đề Vũ ở
Nam Định; Đề Cương, Lãnh Cồ ở Sơn Tây; Đội Văn, Đề Vịnh ở Bắc Ninh;
Tán Thuật ở Hưng Yên...
Lúc này, Bố Giáp mong khỏi bệnh để trực tiếp nắm một đội quân, lưu
động đánh địch. Nhưng bệnh sốt rét cứ bám riết lấy ông, làm cho da tái môi
thâm, mình gày mắt trũng. Chưa ra trận được, ông cùng mấy viên Tán
tương, Tán lý xuống vận động, quy tụ các viên quan châu, phủ, các thổ ty,
lang đạo vùng dân tộc thiểu số. Ông xin Khâm sai Nguyễn Quang Bích
thăng cấp, bổ chức cho những người cùng nghĩa quân chống Pháp. Các
viên Lang đạo Đèo Văn Trì, Đèo Văn Toa ở Lai Châu, Tri phủ Đèo Văn
Sanh ở Điện Biên; các viên Tri châu Nguyễn Văn Quang ở Chiêu Tấn, Đèo
Văn Thao ở Luân Châu, Đèo Văn Bào ở Mai Châu; các tù trưởng Cầm Văn
Thanh, Cầm Văn Hoan ở Sơn La; Đinh Công Tho, Quách Cửu ở ven sông
Đà... đều nhận tờ sức của quan Khâm sai, giúp nghĩa quân chống giặc, giữ
đất.
Càng nghĩ Bố Giáp càng thấy Quang Bích là người cao kiến, nhìn
rộng thấy xa. Lúc này nghĩa quân tập hợp được nhiều quan viên và dân bản