tại đạo nghĩa, sở cụ phi cơ hàn" (Làm tướng cốt ở điều nhân nghĩa; điều
đáng sợ không phải là đói rét). Lòng anh theo hướng đó. Các em cũng nên
nghĩ về điều đó, ngõ hầu thiện ngày một nhiều, phúc ngày một thêm...".
Lúc ấy là mùa xuân Canh Ngọ, đến nay đã gần hai mươi năm. Ôi cái điều
tiên đoán của ông: đi làm quan là bị ràng buộc vào đường đời, gió bụi mịt
mờ, sao mà đúng vậy!
Truyện được biên tậ.p t.ại .ir.ead.vn
Ở núi, ngủ hang, năm sáu năm qua chưa bao giờ ông cực khổ như lúc
này. Vị đại thần mà ăn ngô bung, rau dại, uống chè rừng. Ngó nậm rượu
muốn uống cho khuây buồn, nhưng rượu cạn. Mở tráp chỉ còn mấy đồng
tiền vàng, dành làm phần thưởng cho tướng sĩ vào trận đánh nay mai. Ông
đem tập nhật ký thơ văn của mình ra đọc. Nhiều bài ông ghi cảnh và tình
những nơi ông đã đi qua: - Đến Thượng Bằng La, Qua sông Thao, Trên
đường Quỳnh Nhai... và những nơi ông đã ở: - Trọ nhà người Dao, Nghỉ lại
nhà người Mèo, Trú tại Lai Châu... và đất nước láng giềng mà ông đã tới: -
Nghỉ ở Mông Tự, Đường đến phủ Khai Hóa...
Cái tráp ông đem theo từ khi chạy giặc ở Hưng Hóa, đầy sách vở, thư
từ. Mấy năm di chuyển qua đèo, vượt sông, cái tráp vơi dần, chỉ còn tập thơ
văn của ông cùng tập thơ của Hồng Đậu. Hai tập thơ giúp ông khuây khỏa
những lúc ưu phiền. Ông viết bài "Cảm tác khi đọc thơ Hồng Đậu" (thi sĩ
đời Thanh):
Tiên sinh cảm khái dạt dào
Nghìn sầu muôn giận gửi vào thơ ca
Kiến ong, giặc giã gần xa
Rừng sâu khe hiểm, chân ta trải rồi
Xem thơ thương xót ngậm ngùi