- Nếu giặc bất thần đánh đến đây, các ông đừng vì hộ vệ ta, mà quên
phần thưởng quý báu này của tướng sĩ.
Các trận đánh diễn ra quanh vùng và không xa lắm. Đề phòng địch bất
ngờ ập đến như ở Mường Lò năm xưa, Đề Hoan xin quan Đại cho chuyển
bản doanh từ Sơn Động đến Sơn Lương. Ít lâu sau lại chuyển đến Quế Sơn,
rồi đến vùng núi Cháu, cùng huyện Yên Lập.
Núi Cháu có tên chữ là Tôn Sơn, có đỉnh cao gọi là Đọi Đèn. Hoa lau
trắng xóa phản chiếu ánh nắng, sáng như ánh đèn nên có tên Đọi Đèn.
Từ vùng ngoài vào vùng núi Cháu phải qua con đường độc đạo dài
dặc, quanh co và nhiều dốc. Có một dốc khá cao gọi là đèo Vàng. Qua đèo,
đường thoải xuống và mở ra phía trước một thung lũng hẹp, với một cánh
đồng nhỏ: Đồng Hon. Núi Cháu đứng bên thung lũng. Đề Hoan cho quân
bạt đất ven núi, làm doanh trại, kho tàng.
Tới nơi ở mới, Quang Bích tĩnh dưỡng ít lâu, sức khỏe dần dần hồi
phục. Ông cùng Trần Ngọc Dư và người tùy tùng vào gặp gỡ dân bản. Bản
Đãng là nơi gần nhất cũng phải mất gần nửa buổi sáng lội suối, luồn rừng.
Những con vắt xanh bám ở trên cây, ngửi hơi người liền nhảy xuống bám
vào đầu, chui vào lưng hút máu. Thấy ngứa, Quang Bích nhờ Dư lôi vắt ra,
vết máu chảy theo. Dư liền đọc vế đối tức sự:
- Gặp buổi gian truân, đi gặp dân cũng mất máu.
Quang Bích liền đối lại:
- Dẫu tài thao lược, muốn giữ nước phải gần dân.
Nghe vế đối, Ngọc Dư liền nhớ lại chính sách Thập châu của thầy. Đó
là những điều thân dân, khoan dân, mà trong bài văn thi Đình thầy đã đề
cập, được vua khích lệ. Trong chính sách đó, dân là các dân tộc thiểu số,
bởi từ khi làm Tri phủ Lâm Thao, thầy đã từng sống với họ...