ngay lập tức nhận ra rằng bọn chúng đã trừ khử cậu ấy bằng cách này hay
cách khác. Tôi bắt chuyến bay đầu tiên về đây. Còn lại thì mọi người đều đã
biết.”
“Vậy tại sao cậu không lập tức tố giác bọn chúng, Henry? Nếu vậy có lẽ
cha cậu vẫn còn sống.”
“Phải,” Henry ngắc ngứ. “Đúng thế, nhưng tôi đã không biết hay tưởng
được những gì chúng dám làm. Hãy nhớ rằng không có bằng chứng nào
chống lại chúng. Sự trở về của tôi chắc hẳn đã làm chúng choáng váng sau
khi tin rằng đã giết chết tôi đến lần thứ hai. Tôi cảm thấy nếu để bọn chúng
lo lắng bồn chồn như vậy thì sẽ đến lúc chúng quá hoang mang mà tự để lộ
chân tướng. Tiện đây thì Alice đã thực sự bị suy nhược thần kinh.
“Ngẫm lại, tôi tin rằng bọn chúng đã nhắm sai mục tiêu khi sát hại cha tôi,
vì nhất định người bọn chúng hướng đến là tôi. Bọn chúng có đủ mọi lí do
để trừ khử tôi. Bọn khốn nạn, giá mà tôi biết trước.”
Vẫn không rời mắt khỏi quả cầu thủy tinh, Drew châm một điếu thuốc.
Trên mặt ông ta hiện rõ vẻ mãn nguyện thanh thản mà tôi chưa thấy bao giờ.
Lời giải thích của Henry rõ ràng đã trút bỏ gánh nặng khỏi vai ông.
“Tôi phải thừa nhận rằng,” ông ta lên tiếng. “Những tên sát nhân này đã
tạo nên cả một nghệ thuật trong tội ác của chúng. Rất hiếm khi gặp được
những tên tội phạm ngoại hạng như vậy. Nhưng vẫn tồn tại nghi vấn về vụ
sát hại cha cậu. Tôi rất tò mò muốn biết làm thế nào bọn chúng có thể thoát
khỏi ngôi nhà mà không để lại dấu chân trên tuyết. Cậu có giải thích được
không?”
“Không, tôi không thể,” Henry thẳng thừng. “Là chưa thể. Nhưng chắc
chắn phải có một mánh khóe nào đó.”
Đột nhiên, mặt của Drew chùng hẳn xuống. Ông ta há miệng muốn nói
nhưng không phát ra âm thanh nào, người vẫn chôn nguyên tại chỗ.
“Sao thế, ông thanh tra?” Henry nhẹ nhàng hỏi.
“Tôi… bọn chúng… vợ chồng Latimer đã chết hai ngày nay. Chúng
không thể giết cha cậu. Cha cậu mới bị giết trong vòng hai mươi tư tiếng.
Không thể là bọn chúng. Điều đó là không thể nào.”