Đến một chỗ, thấy có đèn nến sáng, bèn chạy ngay vào. Đó là một ngôi
đền. Cậu vào hẳn nội cung, thấy trên ngai thờ một ông vua áo thêu rồng
chầu, mũ long cổn giát ngọc sáng lóng lánh. Dưới có mấy gã coi đền đang
dở thức dở ngủ. Đứng ngắm một lúc, cậu lại quen thói tinh nghịch, tóm búi
tóc mấy gã coi đền lôi dậy, quát vang:
- Ta là vua đây, lui ra cho ta thắng áo mũ, lên ngôi thiên tử.
Mấy gã coi đền trông thấy đôi kiếm sắc, lại thấy cậu hung dữ thì khiếp
sợ ôm đầu chạy lủi ra. Cậu nhảy phắt lên lột áo mũ, mặc chỉnh tề, nom quả
đường đường một vị đế vương, lưng đeo bảo kiếm lẫm liệt, lên ngai ngồi,
vui thích rằng mình được làm vua. Còn tướng tá chung quanh toàn những
vị thần bằng tượng gỗ.
Ngồi một lúc trên ngai, thấy trời đã sáng, bụng đói quá, trông thấy đồ lễ
vật trong đền, rượu, chuối, xôi, gà luộc, bèn tự lấy chén no say, rồi dạo
chơi, chơi chán lại lên ngai ngồi ngự. Đến khi trông rõ hoành phi câu đối
mới biết đấy là đền vua Thục An Dương Vương ở sườn núi Mộ Dạ (thuộc
phủ Điển Châu, tỉnh Nghệ An bây giờ, tục gọi là Đền Cuông). Khi đã hiểu
ra, cậu sinh lòng kính sợ. Nhưng bản tính nghịch ngợm, và ý thích làm vua
vẫn chưa hết, cậu cứ mặc nguyên cả áo mão, ra ngồi trước đền, chỗ đường
cái quan. Ngồi mãi, chẳng thấy ai qua lại, mãi đến chiều mới bắt gặp một
đoàn người bộ hành đi buôn bán, cả đàn ông lẫn đàn bà ước độ hai mươi
người. Chờ họ đến gần, Đắc lên tiếng quát tháo:
- Ta là vua đây. Chúng bay đi qua phải quỳ lạy mới được đi, bằng không
mất đầu cả đó!
Bọn kia tưởng là thần thánh hiện lên, khiếp hãi buông bỏ gồng gánh, vội
quỳ rạp cả xuống vái lạy một loạt. Đắc ranh mãnh che miệng cười. Chẳng
may, trong bọn ấy có bà cô ruột của Đắc, vừa thoạt trông thấy cháu đã nhận
ra ngay, bà quát: