Tôi cho tay trái vào túi quần ống túm của mình để lấy ra bản phác thảo mà
bác thợ nề đã vẽ. Anh thợ chằng đặt đèn lồng xuống nền đất nện và rồi, vừa
lắc đầu chán nản vừa liếc sang thợ phụ của mình, anh nhận lấy bản phác
thảo và bắt đầu nghiên cứu.
Những chỉ dẫn của bác thợ nề hướng dẫn kích thước chiếc hố cần được
đào và số đo của phiến đá sẽ được hạ xuống hố đấy.
Một đỗi sau, anh thợ chằng lại lắc đầu và quỳ xuống cạnh chiếc đèn lồng,
dí sát bản phác thảo vào đèn. Khi đứng lên, anh cau mày. “Cái hố phải sâu
hai mét bảy chứ,” anh bảo. “Hố trong bản thảo này chỉ có một mét tám
thôi.”
Anh thợ chằng này hiểu biết cặn kẽ công việc của mình đấy. Một hố
chuẩn để chèn ông kẹ thì sâu một mét tám nhưng đối với kẹ xé xác, loại ông
kẹ nguy hiểm hơn hết thảy, thì hai mét bảy mới đúng tiêu chuẩn. Chắc chắn
là chúng tôi đang đối mặt với một kẹ xé xác – bấy nhiêu tiếng gào thét của
cha xứ đủ là bằng chứng rồi – nhưng không còn đâu thời gian để đào cho
được hai mét bảy nữa.
“Như thế cũng đủ rồi ạ,” tôi đáp. “Đến lúc trời sáng hố phải được đào
xong, bằng không mọi chuyện sẽ quá muộn và cha xứ sẽ chết mất.”
Cho đến lúc đấy, cả hai người đàn ông đều là những kẻ cao lớn lực lưỡng
mang ủng to đùng, khắp mình đâu đâu cũng toát ra vẻ tự tin. Vậy mà giờ
đây, bỗng chốc họ trông bồn chồn lo lắng. Họ hiểu được tình hình là như thế
nào từ mẩu tin tôi đã gửi triệu họ đến kho chứa cỏ. Tôi đã dùng tên của Thầy
Trừ Tà để đảm bảo rằng họ sẽ đến ngay lập tức.
“Cậu có biết mình đang làm gì không thế cậu nhóc?” tay thợ chằng hỏi.
“Cậu có làm nổi không đấy?”
Tôi trừng mắt nhìn thẳng vào mắt anh ta và cố gắng không chớp. “À, em
đã khởi sự khá tốt rồi mà,” tôi đáp. “Em đã thuê lấy tay thợ chằng giỏi nhất
Hạt cùng với thợ phụ của anh ấy đấy thôi.”
Nói ra điều này thật là chuyện đúng đắn và gương mặt anh thợ chằng đã
nở ra nụ cười. “Khi nào phiến đá đến đây?” anh hỏi.