“Sớm thôi, trước khi trời sáng. Bác thợ nề sẽ tự mình mang đến. Chúng ta
phải chuẩn bị sẵn sàng thôi.”
Anh thợ chằng gật đầu. “Thế thì dẫn đường đi thôi cậu Ward. Chỉ cho
chúng tôi chỗ cậu muốn đào đi nào.”
Lần này giọng anh ấy không còn chút gì mỉa mai nữa. Chỉ còn mang tính
công chuyện nghiêm túc thôi. Anh muốn hoàn thành xong xuôi công việc.
Tất cả chúng tôi đều muốn thế, mà thời gian thì có hạn nên tôi dựng mũ
trùm đầu lên, tay trái cầm thanh trượng của Thầy Trừ Tà, dẫn đường bước ra
dưới cơn mưa phùn nặng hạt lạnh cóng.
Cỗ xe hai bánh của họ đang ở bên ngoài, dụng cụ được che bằng bạt
không thấm nước, con ngựa kiên nhẫn đứng chờ giữa hai càng xe đẫm hơi
nước dưới cơn mưa.
Chúng tôi băng qua cánh đồng sình lầy rồi men theo dãy hàng rào cây
mận gai đến nơi hàng cây thưa bớt, bên dưới các cành cây của cây sồi cổ thụ
ngay ven sân nhà thờ. Cái hố phải ở gần vùng đất thánh, nhưng cũng không
được quá gần. Những bia mộ gần nhất chỉ cách đấy có hai mươi bước.
“Các anh hãy đào hố gần nơi kia hết mức có thể,” tôi vừa bảo vừa chỉ tay
về phía gốc cây.
Dưới con mắt canh chừng nghiêm ngặt của Thầy Trừ Tà, tôi đã từng đào
rất nhiều hố để luyện tập. Trong trường hợp cấp bách, lẽ ra tôi có thể tự
mình đào hố, nhưng những người đàn ông này đã là chuyên gia rồi nên họ
đào sẽ nhanh hơn.
Khi các anh ấy quay vào lấy dụng cụ, tôi vén hàng rào và đi len lỏi qua
những bia mộ tiến về phía nhà thờ cũ kỹ. Nhà thờ này đang trong tình trạng
tồi tệ cần được sửa chữa: mái nhà mất đi mấy viên ngói và đã bao nhiêu năm
rồi nhà thờ chẳng được sơn lấy một miếng. Tôi đẩy cánh cửa hông, cửa rên
rỉ kẽo kẹt mở ra.
Vị cha xứ già nua vẫn còn ở nguyên vị trí cũ, đang nằm ngửa gần bên bàn
thờ. Người phụ nữ vừa quỳ trên sàn nhà gần đầu ông ta vừa nức nở. Khác
biệt duy nhất là giờ đây trong nhà thờ tràn ngập ánh sáng. Bà ta đã lục khắp