trong phòng áo lễ để tìm ra kho trữ nến rồi thắp hết số nến ấy lên. Ít nhất
cũng phải là một trăm ngọn nến, nhóm thành từng nhóm năm sáu cây nến
một. Bà ta đặt những cụm nến ấy trên các băng ghế, trên sàn nhà và các bậu
cửa sổ, nhưng chủ yếu là trên bàn thờ.
Khi tôi khép cửa lại, một luồng gió mạnh thốc vào bên trong nhà thờ
khiến các ngọn nến đồng loạt bạt đi. Người phụ nữ ngước lên nhìn tôi,
gương mặt bà đầm đìa nước mắt.
“Cha đang chết dần,” bà ta bảo, giọng nói dội quanh của bà chất chứa đau
thương. “Tại sao mãi giờ này cậu mới đến vậy?”
Vì chúng tôi nhận được tin nhắn khi đang ở Chipenden, nên tôi phải mất
hai ngày mới đến được nhà thờ. Đường đến Horshaw phải hơn ba mươi
dặm, hơn nữa tôi cũng có phải là khởi hành ngay đâu. Thoạt đầu Thầy Trừ
Tà, dù còn ốm rất nặng không thể ra khỏi giường được, vẫn không chịu để
tôi đi.
Thông thường Thầy Trừ Tà chỉ phái thợ học việc đi làm việc một mình
sau khi đã huấn luyện cho cậu ta được một năm. Tôi thì mới mười ba tuổi và
mới chỉ học việc với thầy chưa tới sáu tháng. Đây là một nghề khó khăn và
dễ sợ, thường xuyên phải đương đầu với thứ mà chúng ta gọi là “thế lực
bóng tối.” Bấy lâu nay tôi vẫn đang học cách đối phó với phù thủy, hồn ma,
ông kẹ các loại cùng mọi thứ quấy phá về đêm. Nhưng liệu tôi có sẵn sàng
cho việc này chưa nhỉ?
Đang có một ông kẹ cần phải được chèn, nếu thực hiện đúng cách thì việc
này sẽ khá đơn giản. Tôi đã chứng kiến Thầy Trừ Tà ra tay hai lần. Lần nào
thầy cũng mướn những người thạo việc để phụ giúp và công việc đã diễn
tiến suôn sẻ. Nhưng việc lần này hơi khác. Có chút phức tạp.
Bạn biết đấy, cha xứ là anh ruột của Thầy Trừ Tà. Tôi chỉ mới nhìn thấy
ông ta một lần trước đây khi chúng tôi ghé thăm Horshaw vào mùa xuân.
Ông ta đã trừng trừng nhìn chúng tôi và huơ tay làm một dấu thánh to tướng
trên không trung, gương mặt ông ta méo xệch đi vì giận dữ. Thầy Trừ Tà
thậm chí còn chẳng liếc về phía cha xứ bởi vì giữa họ chẳng còn bao nhiêu