này.”
“Tôi cần phải quay về,” tôi thốt lên, nhưng khó nhọc phát ra từng từ.
“Nếu tôi không về, thầy Gregory sẽ thắc mắc là tôi đang ở đâu đấy.”
“Cứ để cho lão ta thắc mắc. Lão ấy nghĩ gì thì có quan trọng gì đâu cơ
chứ? Mi sẽ không bao giờ quay về nữa... Giờ đây mi là chân học việc cho ta
và tối nay ta có việc cho mi làm đây.”
Nở nụ cười khải hoàn, Morgan bước vào trong buồng xưng tội, theo lối
cửa bên trái dành cho cha cố. Tôi không thể nhìn thấy hắn đâu nữa. Hai cây
nến tỏa ánh sáng ra bên ngoài về phía nhà nguyện nhưng hai lối cửa vào chỉ
tuyền là hai khối chữ nhật tối om.
Tôi cố đứng lên bỏ chạy nhưng lại thấy mình đuối sức quá đỗi và hai chân
tôi vẫn chưa cử động được bình thường. Đầu tôi rần rật đau nhức còn tầm
nhìn của tôi nhòe nhoẹt hẳn đi sau cú đấm vào đầu ấy, nên tôi chỉ có thể ngồi
tại đấy, cố sức định thần lại và hy vọng là mình sẽ không ói mửa.
Chập sau người đầu tiên trong giáo đoàn của Morgan đến nơi. Hai người
phụ nữ bước vào, và khi từng người bước qua ngưỡng cửa, tôi lại nghe thấy
tiếng kim loại lanh canh va vào kim loại. Trước đây tôi không để ý thấy,
nhưng bên phía trái cửa ra vào có một đĩa lạc quyên bằng đồng, và mỗi
người đều thả một đồng tiền vào đĩa ấy trước khi đi đến chỗ ngồi. Thế rồi,
chẳng hề liếc đến phía tôi, đầu thì cúi gằm, bọn họ ngồi xuống một trong
những hàng ghế phía trước.
Các băng ghế bắt đầu đầy người nhưng tôi để ý thấy rằng bất cứ ai đi vào
trong nhà nguyện đều để đèn lồng của họ lại bên ngoài. Giáo đoàn này chủ
yếu là phụ nữ – một số ít các ông hiện diện tại đây đều khá là lớn tuổi rồi.
Không ai nói năng gì. Chúng tôi chờ đợi trong im lặng, ngoại trừ âm thanh
lanh canh loảng xoảng của mấy đồng bạc rơi vào đĩa lạc quyên. Cuối cùng,
khi hầu như các chỗ ngồi đều đã kín người, dường như cánh cửa tự đóng lại.
Hoặc là thế, hoặc là có ai đó bên ngoài đẩy cửa vào.
Giờ thì ánh sáng duy nhất là từ hai cây nến ở hai bên buồng xưng tội tỏa
ra. Đôi ba tiếng ho húng hắng cất lên, ai đó trên băng ghế trước hắng giọng