ấy giờ trở thành nơi trú lánh cho một số phù thủy đã chết. Vài tên đã trốn
thoát khỏi những nấm mồ không được làm phép thánh; một số khác đơn
giản là chỉ được gia đình bọn chúng đem đến và bỏ lại đấy sau khi chết.
Những phù thủy này thường ngủ suốt ngày; vùi sâu mình vào lớp đất mùn
dưới rừng cây, nhưng ban đêm bọn chúng lại chui lên săn lùng máu nóng
của những sinh vật sống. Vậy nên khi mặt trời lặn, ngay cả những con chim
đậu trên cây trong thung lũng ấy cũng không được an toàn đâu. Chắc chắn
đây là nơi phải tránh rõ xa và những người dân bản địa cũng đã cố gắng hết
sức. Thậm chí dù có thế, hàng năm vẫn có vài nhân mạng đáng thương bị
mất tích. Hai hay ba mụ phù thủy còn rất mạnh và mỗi đêm thường lang
thang khỏi trũng ấy hàng dặm dài. May sao số phù thủy còn lại không đi xa
khỏi hang ổ được vài bước...”
“Cha nghĩ nơi ấy có bao nhiêu phù thủy nào?” Thầy Trừ Tà hỏi.
Cha Stocks cau mày. “Ít nhất là một tá. Nhưng theo như lời tôi nói, chỉ có
hai hay ba mụ là đi ra khỏi trũng ấy được.”
“Lẽ ra ta phải quay lại đây sớm hơn mới phải!” Thầy Trừ Tà vừa nói vừa
lắc đầu. “Lẽ ra tình hình không được phép tồi tệ đến mức này. Ta e là ta đã
tắc trách rồi...”
“Vớ vẩn. Làm sao mà thầy biết được. Giờ đây thầy đang có mặt tại nơi
này và đấy mới là điều quan trọng,” cha Stocks đáp lại. “Nhưng quả là, tình
hình tuyệt vọng lắm rồi – nhất định phải ra tay trước khi Lễ Hội Mùa đến.”
“Khi cha đến Chipenden,” Thầy Trừ Tà bảo, “ta có hỏi cha một câu
nhưng cha chưa khi nào trả lời rốt ráo. Vậy nên ta sẽ hỏi lại đây. Cha nghĩ là
các hiệp hội phù thủy sẽ cố làm gì trong Lễ Hội Mùa?”
Cha Stocks đẩy ghế ra sau, chầm chậm đứng lên rồi thở dài. “Thôi được
rồi, tôi sẽ nói vậy!” cha xứ đáp, hơi hơi lên giọng. “Điều gì đã khiến hai hiệp
hội phù thủy kết hợp lại và hiệp hội thứ ba cũng tham gia vào chứ? Điều gì
có thể khiến bọn chúng dẹp bỏ bao hiềm khích bấy lâu nay sang bên? Đa số
bọn chúng không thèm nhìn mặt nhau, trừ mỗi lần họp lại với nhau ba mươi
năm trước...”