trọng nhờ một thùng rượu whisky đặt tại góc phòng khách nhà ông.
Nó dạt vào bờ từ một con tàu đắm trên Hồ Michigan. Người này
rất hào phóng với nó, vì vậy nhà ông trở thành nơi tập trung của
cộng đồng.
Những đồ đạc duy nhất còn lại trong phòng chỉ là một lò sưởi
đốt bằng củi và ba hòm đựng xà bông. Ngồi trên một trong ba
chiếc hòm đó, tôi cố gắng thuyết phục người đàn ông mù chữ này
rằng tôi có đủ khả năng dạy học. Cuối cùng, tôi cũng thành công
bằng cách đọc một câu chuyện cười từ một cuốn niên giám. Cuốn
sách mỏng đó là toàn bộ thư viện của ông, và việc tôi đọc nó là một
phát hiện lớn đối với ông. Đó lại là một bài học khác. Không phải là
tôi làm việc chủ yếu với những người không biết đọc, biết viết,
mà là với những người rất giản dị. Tôi yêu quý họ. Tôi yêu quý và
hiểu các phản ứng, cũng như các bản năng tự nhiên của họ.
Sau đó, chúng tôi thương thảo về lương. Họ đang lên kế hoạch
tổ chức hai tháng học hè. Chúng tôi đến nhà thủ quỹ và đếm các
nguồn ngân quỹ của quận. Có 79,5 đô-la và tôi được cho số tiền đó
để dạy học.
Tôi tìm thấy một gia đình ở trong một trang trại có một chiếc
đàn organ mới, cùng hai bé gái muốn chơi. Tôi đề nghị được dạy
nhạc cho chúng, cộng thêm tiền ăn 1 đô-la một tuần. Mùa hè đó tôi
tiết kiệm được 35 đô-la một tháng. Phải rất, rất lâu sau khi tham
gia kinh doanh trước đó, tôi mới tiết kiệm được nhiều như thế.
Vào những ngày trong tuần, tôi là một giáo viên trong cộng
đồng đó, còn vào các Chủ nhật, tôi là một mục sư. Và ở đó, ngày nào
tôi cũng học được những bài học mới về con người. Rồi dần dà
bạn sẽ thấy, đây là khoảng thời gian tôi học hỏi được nhiều nhất.