công nghiệp này đã phát triển nhanh chóng trong Thế Chiến II, khi
nguồn cung cấp từ châu Âu bị cắt đứt và các nhà sản xuất địa
phương đã được ủy quyền cho các nhu cầu quân đội. Đến năm
1943, số lượng các nhà máy dệt may đã tăng lên đến 250, với một
lực lượng lao động là 5.630, và sản lượng tăng gấp 10 lần.
Có hai nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng nhanh
chóng về kinh tế của khu vực Do Thái trong giai đoạn này: nhập cư
và dòng vốn. Dân số Do Thái tăng chủ yếu thông qua nhập cư; vào
cuối năm 1947 đã đạt 630.000, chiếm khoảng 35% dân số. Làn
sóng nhập cư tràn về Palestine, đặc biệ t trong những năm 1920 và
1930. Họ bao gồm các nhà Zionist mang lý tưởng phục quốc và
những người tị nạn (kinh tế và chính trị) từ Trung và Đông Âu. Dòng
vốn đầu tư bao gồm các quỹ công cộng, thu thập bởi các tổ chức
Zion, nhưng phần lớn là các quỹ tư nhân. Sản phẩm quốc gia phát
triển nhanh chóng trong thời gian nhập cư lớn, nhưng những làn sóng
nhập cư lớn được theo sau bởi suy thoái kinh tế, tiếp theo là những
giai đoạn điều chỉnh và củng cố.
Trong giai đoạn 1922-1947, NDP (Net Domestic Product – Sản
phẩm Quốc nội Ròng) của khu vực Do Thái tăng trưởng với tốc độ
trung bình 13,2% và đến năm 1947 chiế m 54% NDP của cả hai khu
vực kinh tế người Do Thái và Ả Rập gộp lại. NDP bình quân đầu
người ở khu vực Do Thái tăng ở mức 4,8%; vào cuối của giai đoạn này
lớn hơn 8,5 lần so với năm 1922, và 2,5 lần lớn hơn so với khu vực Ả
Rập. Mặc dù phát triển nông nghiệp - một mục tiêu ý thức hệ - là đáng
kể, khu vực này không bao giờ chiếm hơn 15% tổng sản phẩm quốc
nội ròng của nền kinh tế của người Do Thái. Sản xuất chế tạo tăng
trưởng chậm trong suốt giai đoạn, nhưng rất nhanh chóng phát
triển trong Thế Chiến II, khi Palestine cắt đứt khỏi sự cạnh tranh
của nước ngoài và là nhà cung cấp chính cho các lực lượng vũ trang
Anh tại Trung Đông. Đến cuối giai đoạn này, sản xuất chế tạo
chiếm một phần tư NDP. Xây dựng nhà ở, mặc dù là một phần nhỏ