Khi Israel giành được độc lập, về cơ bản đó là một quốc gia thuộc
Thế giới thứ Ba. Những năm đầu đã được đánh dấu bởi các áp lực
chiến lược, nhập cư lớn, tình trạng thiếu nhà ở và khan hiếm nhu
yếu phẩm, tất cả khiến cho công cuộc xây dựng đất nước trở nên
rất khó khăn. Một phần trăm dân số Israel đã bị chết trong Cuộc
chiến Độc lập 1948-1949. Trong nhiều năm sau đó, chính sách chia
khẩu phần được áp dụng (như chế độ tem phiếu của Việt Nam thời
bao cấp), hàng trăm ngàn người tị nạn đến từ châu Âu và hàng trăm
ngàn người khác đến từ Trung Đông, hầu hết với bộ quần áo trên
người và một túi tiền trống rỗng.
Đây mới chỉ là phần mở đầu của danh sách các thách thức về
kinh tế mà Israel phải đối mặt. Cộng thêm vào đó là sự đa dạng của
ngôn ngữ và phong tục, không có nền tảng công nghiệp và khoa học-
kỹ thuật, các đối tác thương mại tiềm năng bên ngoài bị các nước Ả
Rập đe dọa tẩy chay kinh tế. Dân số Israel lại quá nhỏ và không có
ả
nh hưởng cho nên Israel không có thị trường nội địa cần thiết đủ
để xây dựng một ngành công nghiệp nặng hoặc thậm chí sản xuất sản
phẩm với qui mô lớn.
Đổi mới, công nghệ, và tính linh hoạt đã trở thành trọng tâm trong
chiến lược xây dựng kinh tế. Ý tưởng là phải phát triển các giải pháp
thích hợp đặc biệt cho Israel. Ví dụ, trong lĩnh vực nông nghiệp, vấn
đề là làm thế nào để phát triển cây trồng nơi rất khan hiếm
nước. Một loạt các giải pháp kỹ thuật đã được triển khai - tưới nhỏ giọt,
phủ nhựa cho cánh đồng, nhà kính, lai tạo cây trồng, và tương tự -
để thúc đẩy sản xuất. Thị trường đã được tìm thấy ở châu Âu cho
trái cây và rau quả trồng trong mùa đông. Một ngành công nghiệp
nhẹ và hàng tiêu dùng đã được tạo ra trên cơ sở tương tự.
Kinh nghiệm của Israel cho thấy Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ
(Democratic Socialism) là một lựa chọn rất phù hợp với thực tế
Israel trong hoàn cảnh thiếu vốn. Tại Israel, cách tiếp cận rộng rãi