người ngoài Kitô giáo, tuy thế người Do Thái vẫn luôn giữ được sự
hiện diện của họ tại vùng đất Levant cổ xưa, mặc dù với con số rất
nhỏ. Sử gia kiêm nhà báo Paul Johnson (1928) viết về thời kỳ này
như sau: “Ở bất cứ một thị trấn nào sống sót qua chiến tranh,
hoặc những khu đô thị mới mọc lên, người Do Thái sớm hay muộn sẽ
xuất hiện và tạo dựng cuộc sống. Sự việc gần như hủy diệt của khu
Do Thái trên vùng đất Palestine trong thế kỷ 2 đã biến những
người sống sót của các cộng đồng nông thôn Do Thái thành cư dân
của những vùng ven thành phố. Sau khi bị người Ảrập chinh phục
vào thế kỷ 7, các cộng đồng nông nghiệp lớn của người Do Thái ở
Babylon đã bị sụp đổ thảm hại bởi thuế má và, để tồn tại, người Do
Thái lại tiếp tục trôi dạt vào các thị trấn và thay đổi nghề trở
thành thợ thủ công, thương gia, các nhà buôn. Ở bất kỳ đâu, những
người Do Thái đô thị này, phần lớn biết đọc biết viết và biết làm
tính, luôn biết cách để tồn tại, trừ khi pháp luật hoặc bạo lực không
cho phép”.
Trong những năm đầu-Byzantine (Đông La Mã) ở thế kỷ 6, tổng
cộng có 43 cộng đồng Do Thái ở Palestine. Trong thời kỳ Hồi giáo
và Thập tự chinh, có 50 cộng đồng tại Jerusalem, Tiberias, Ramleh,
Ashkelon, Caesarea và Gaza. Trong thời kỳ đầu của Đế quốc
Ottoman vào thế kỷ 14 có khoảng 30 cộng đồng tại Haifa,
Shechem, Hebron, Ramleh, Jaffa, Gaza, Jerusalem và Safed. Riêng
Safed trở thành vị trí ưu thế nhất với dân số khoảng 30.000 người
Do Thái vào cuối thế kỷ 16, sau sự trục xuất người Do Thái
Sephardi
khỏi Iberia (Tây Ban Nha) một thế kỷ trước đó vào năm
1492. Paul Johnson cũng nhận xét rằng trong các vùng lãnh thổ
Ả
rập – Hồi giáo, bao gồm phần lớn của Tây Ban Nha, Bắc Phi và
Cận Đông ở phía nam Anatolia trong thời Trung cổ, đời sống người
Do Thái dễ thở hơn so với ở châu Âu.