vật lý, các nhà ngoại giao, các nhà thiên văn học và các nhà huyền
môn Do Thái.
Người Ảrập thống trị Bán đảo Tây Ban Nha cho đến thế kỷ 11
khi người Kitô giáo giành lại được, và vào năm 1096 Tòa thánh
Vatican khởi động các cuộc Thập tự chinh kéo dài từ châu Âu sang
đến tận Jerusalem. Giáo Hoàng thúc giục các nhà cầm quyền Kitô
giáo tấn công người Do Thái giáo và người Hồi giáo ở châu Âu và
thu hồi các vùng thánh địa ở Palestine đang nằm dưới quyền kiểm
soát của người Hồi giáo. Các cộng đồng Do Thái giáo và Hồi giáo ở
khắp châu Âu bị Thập Tự Quân càn quét dữ dội đến nỗi nhiều
người Do Thái giáo phải đào thoát sang các quốc gia khoan dung
hơn như Ba Lan hoặc các quốc gia Hồi giáo.
Đầu thế kỷ 14, ở Tây Ban Nha lại dấy lên phong trào bài Do
Thái. Những bách hại và cưỡng bức cải đạo tiếp tục tăng lên. Người
Do Thái nếu không cải đạo sang Kitô giáo sẽ bị tử hình hoặc bị tước
đoạt quyền công dân. Một bộ phận những người Do Thái giàu có đã
tự nguyện chuyển sang Kitô giáo; một số người bị ép phải cải đạo
nhưng vẫn bí mật duy trì Do Thái giáo – những người này được gọi
làMarranos. Để thanh trừ các Marranos, giáo hội Kitô Tây Ban Nha
lập ra tòa án phán xét dị đoan nhằm tiến hành phán xử các
Marrano bằng những biện pháp nghiệt ngã từ roi vọt đến thiêu
sống. Trong thời gian này có khoảng 40 vạn người Do Thái bị phán
xét trong đó ba vạn người bị tử hình. Áp lực tiếp tục tăng lên cho
đến năm 1492 khi Vua Ferdinand của Tây Ban Nha ra sắc lệnh trục
xuất người Do Thái giáo và Hồi giáo khỏi Tây Ban Nha. Vào giữa
thế kỷ 15, sự bức hại của Tây Ban Nha đối với người Do Thái tăng
đến đỉnh điểm và tàn khốc, dẫn tới phong trào bài Do Thái khắp
châu Âu. Hàng nghìn người Do Thái một lần nữa lại phải bỏ Tây Ban
Nha trốn sang Ý, Morocco (Bắc Phi), Bán đảo Balkan
, Thổ Nhĩ
Kỳ của Đế chế Ottoman, và Ba Lan…