tự do nghiên cứu Torah và Talmud, và nói tiếng Yiddish, một thứ
tiếng Đức cổ địa phương trộn lẫn tiếng Hebrew. Người Do Thái tại
Ba Lan có được những may mắn này là nhờ vào chính sách khoan
dung tôn giáo và quyền tự chủ theo luật định xã hội của Ba Lan
trong một thời gian dài. Điều này đã kết thúc với sự chia cắt của
Ba Lan bắt đầu vào năm 1772, và đặc biệt, với sự kỳ thị và đàn áp
người Do Thái dưới thời Đế chế Nga Hoàng.
Người Do Thái ở Nga
Các vùng lãnh thổ rộng lớn của Đế quốc Nga có một thời là nơi
cư ngụ của một quần thể người Do Thái lớn nhất trên thế giới.
Trong những vùng lãnh thổ này các cộng đồng Do Thái đã hưng
thịnh và phát triển nhiều truyền thống thần học và văn hóa khác
biệt nhất của Do Thái giáo hiện đại, trong khi cũng phải đối mặt với
những thời kỳ mang nặng chính sách bài Do Thái và khủng bố tàn
bạo. Do Thái Nga bao gồm một số sắc dân khác nhau, chủ yếu là
Ashkenazi, ngoài ra là Do Thái Mountain, Crimean Karaites,
Krymchaks, người Do Thái Bukharan, và Do Thái Georgian.
Sự có mặt của những người Do Thái ở phần châu Âu của Nga có
thể được truy ngược trở lại thế kỷ 7-14. Trong thế kỷ 11 và 12, dân
Do Thái bị giới hạn trong một khu riêng biệt ở Kiev. Bằng chứng về
sự có mặt của người Do Thái ở Muscovite Nga lần đầu tiên được
tìm thấy trong các biên niên sử của năm 1471. Trong suốt triều đại
của Catherine II, người Do Thái bị giới hạn ở những nơi họ có thể
sống hoặc phải di cư đến các vùng khác của Nga. Sự khởi đầu của
thế kỷ 19 được đánh dấu bởi sự di chuyển của người Do Thái đến
Novorossiya
. Alexander III tiếp tục leo thang trong chính sách
bài Do Thái. Một làn sóng tàn sát người Do Thái với quy mô lớn quét
qua Ukraina trong năm 1881. Năm 1886, một sắc lệnh trục xuất