Xà Thoát: Là vỏ của tất cả loài rắn lột, mang theo một ý thức hệ, một
công năng cởi lốt, nên rất có khả năng đẩy những bệnh thời nhiệt từ ngoài
xâm nhập vào trong không ra hết, được đẩy hết ra ngoài, mà nhất là hệ thống
Thái Dương. Nên thuốc giải ban, giải độc thường dùng nó có tốt chớ không
có hại. Mạch phải hữu Thốn cao hơn hữu Quan, hữu Xích thì dùng mới hay.
Hồng Táo: Da khô, thịt xốp, ngọt ít, trái nhỏ, cho nên có giúp thêm cho
Tim và Tỳ mà không tăng thêm nóng và thấp trệ. Trường hợp mạch tả Thốn
thiếu, không đầy đủ rất cần.
Sanh Cương: Là gừng sống, khi vào thuốc giải nhiệt, giúp thêm cho thuốc
có khả năng chấn động, phát tán từ bộ tiêu hóa ra đến mặt da, nhờ vị cay
ngọt tánh ấm; nên bệnh thời nhiệt hay ngoại cảm, miệng lạt, hoặc hữu Quan
không đủ năng lực thì phải dùng nó.
V. GIẢI THÍCH MẠCH LÝ
Bệnh Ôn (nói chung cả Ban Đỏ, Ban Trắng) là bệnh thuộc loại phục tà tái
phát, nên khi phát ra gặp thế ly tâm là thuận, gặp thế hướng tâm là nghịch.
Cho nên mùa Xuân mùa Hạ là thuận, mùa Thu mùa Đông là nghịch, thời tiết
ấm áp là thuận, lạnh lẽo là nghịch. Nói về mạch thì người thường hễ nam,
thường tay trái lớn hơn tay phải là thuận, nữ tay phải lớn hơn là thuận. Nam
2 bộ Thốn cao là thuận, nữ 2 bộ Xích Thiệt là thuận. Khi có bệnh Ôn, nam
nữ đều mạch tay trái lớn, mà nghiêng về phù, huyền, sác. Nếu có thấp xen
vào, thấp thạnh hơn ôn thì mạch tay phải lớn mà phù hưỡn, sắc mặt đừ hơn.
Nếu thấp và ôn đều nặng thì phù, huyền, sác mà hưỡn. Nếu gặp mùa Xuân
mùa Hạ, mạch 2 bộ Thốn to, thì dễ bài tiết ra da để khỏi. Nếu là thấp ôn,
mùa Xuân mùa Hạ mà mạch hữu Xích phù, đại, hưỡn, sác, là thuộc loại sẽ
vỡ mạch máu ở ruột mà xuất huyết hậu môn. Ngược lại nếu Thu Đông mà 2
bộ Thốn nghịch, to, lệch về hữu Thốn, với chứng đầu nhức nóng, mắt đỏ,
đầu lưỡi đỏ, chân nóng, lăn lộn, là điềm sắp xuất huyết não. Với bệnh Ôn,
luôn luôn phải đẩy cho bài tiết ra da, trừ khi bệnh lọt vào hạ tiêu với thế bất
đắc dĩ phải cho biến hóa.