Trong khi địch lúng túng, hoang mang, tôi trực tiếp chỉ huy một tiểu
đoàn vận động vào diệt tiểu đoàn 2 Mỹ, giữ vững trận địa chốt chặn được
mười ngày, cũng là thời điểm kết thúc chiến dịch.
Anh Hoàng Minh Thảo, tư lệnh trưởng Bộ tư lệnh B3 xuống xem xét,
thấy đại đội 7 vẫn đủ sức trụ giữ trận địa chốt.
- Sau đó còn đánh tiếp trận nào không? - Tôi hỏi Đàm Văn Ngụy.
- Có. Nhưng không phải ở Tây Nguyên mà là tại Đông Nam Bộ.
Anh Đàm Văn Ngụy kể tiếp. Còn một trận nữa, nhỏ thôi nhưng là một
kỷ niệm đầu tiên khi đặt chân lên mảnh đất Nam Bộ thân yêu. Hồi ấy sau
chiến dịch Đắc Tô - Tân Cảnh kết thúc, trung đoàn 174 chúng tôi được lệnh
cấp trên hành quân cấp tốc vào tăng cường cho chiến trường B2. Tháng 6
năm 1968 chúng tôi tới Lộc Ninh, thì tháng 8 năm đó được vinh dự tham
gia đợt ba cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, đánh địch phản
kích ở vùng ven đô. Sau đó lùi về khu vực Cầu Khởi trên đoạn đường Tây
Ninh - Dầu Tiếng. Tại đây do yêu cầu của nhiệm vụ, chúng tôi thấy không
có cách nào khác là trụ lại, tổ chức trận địa chốt chặn kết hợp với vận động
tiến công, đánh địch, kìm chân chúng lại, vừa diệt được sinh lực, giữ vững
khu vực này được mười ngày.
Rõ ràng chốt chặn kết hợp với vận động tiến công ở khu vực Tàu Ô là
cách đánh không phải do ngẫu hứng, mà được rút ra từ thực tế chiến đấu,
đến chiến dịch Nguyễn Huệ được hoàn chỉnh một bước quan trọng, đạt kết
quả, mang tính hiện thực sống động.
Đúng là lịch sử của một cách đánh đã trải qua những bước đi thăng trầm,
như cái mới ra đời không bao giờ được cuộc sống chấp nhận ngay, mà phải
trải qua sự sàng lọc, tuyển chọn.
Tư tưởng quân sự tiến công của Đảng và phương châm chỉ đạo đấu
tranh vũ trang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là hoàn toàn đúng đắn, bởi