Quân đoàn đã giao cho Sư đoàn 7 các công việc chuẩn bị cụ thể như nghiên
cứu nắm địch, tổ chức trinh sát thực địa đường 14 - Đồng Xoài. Tháng 7,
rồi tháng 10 năm 1974, Sư đoàn 7 lại tổ chức tiếp hai đợt trinh sát thực địa
Đồng Xoài và các vùng phụ cận, đắp cả sa bàn căn cứ này để diễn tập thực
hành tiến công.
Các kế hoạch chung và cụ thể đều đã thống nhất, công việc chuẩn bị coi
như đã hoàn thành. Việc phân công trong Bộ tư lệnh cũng đã được triển
khai: tôi phụ trách hướng Đồng Xoài, anh Bùi Cát Vũ, phó tư lệnh phụ
trách hướng Bù Đăng đang chuẩn bị lên đó chỉ đạo triển khai kế hoạch.
Mọi việc đang diễn ra suôn sẻ, thì liên tiếp có điện từ Hà Nội: Tổng
Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sau cùng là
đồng chí Lê Duẩn nhắc: đợt này chỉ được đánh chi khu Bù Đăng nhưng
không được sử dụng xe tăng và pháo 130 ly.
Tại sao? Một thắc mắc được nêu lên sau khi nhận điện, không trừ một
ai. Nhưng cũng không ai trả lời gãy gọn. Tiếp đó là những cuộc tranh luận
nhỏ diễn ra ngay trong cơ quan Quân đoàn bộ, sôi nổi nhưng khó phân ranh
được vấn đề! Có ý kiến cho rằng sẽ khó hoàn thành nhiệm vụ, số khác thừa
nhận khó khăn nhưng từ trước đến nay nhiều trận đánh rất gay cấn, ta chưa
có tăng, có pháo hạng nặng mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ; có anh em thì
khẳng định - đã là mệnh lệnh thì chỉ có nhiệm vụ tìm biện pháp chấp hành.
Riêng tôi không phải không biết lý do. Qua điện của anh Giáp, anh Ba
đều nhấn mạnh: cần phải tiết kiệm vũ khí, nhất là đạn pháo mặt đất cỡ lớn
để dành cho các đợt tiến công sau lớn hơn. Ta phải “vừa đánh vừa theo dõi
phản ứng của địch để kịp thời đối phó”(3). Nhưng làm sao giải thích được
cái lý do thật cô đặc nêu trong điện từ Hà Nội vào để anh em thông suốt
trong lúc này! Cứ đưa vấn đề một cách tự nhiên có khi lại sinh thêm phức
tạp. Cuối cùng tôi thấy phải quay về với nguyên tắc cơ bản “quân lệnh như
sơn” để ổn định tư tưởng anh em.