Đông Nam Bộ đã đùm bọc, ưu ái tạo thời cơ cho tôi được tham gia chiến
đấu và trưởng thành.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người
yêu sách.]
Trong chặng đường mười nghìn ngày, có ba nghìn sáu trăm năm mươi
ngày sống và chiến đấu ở Đông Nam Bộ đã để lại trong tôi tình cảm nhớ
mãi, biết ơn. Nơi ấy chính là quê hương thứ hai của tôi.
Khi suy nghĩ kể lại những trang cuối cùng của chặng đường mười nghìn
ngày này, bỗng tôi bồi hồi nhớ Quỳnh Nhai, Mộc Châu, Ninh Mít, Đông
Khê, Nghĩa Lộ, Bản Hoa, Nà Sản, Điện Biên Phủ, Phước Long, Đồng Xoài,
Bù Đăng, Bầu Bàng - Dầu Tiếng, Nhà Đỏ - Bông Trang, Cần Đâm, Cần Lê,
An Lộc, Tàu Ô Xuân Lộc. Nhớ các anh chị Lê Thám, Văn Xì, Nguyễn
Phúc, Vũ Văn Lịch, Khuất Duy Kính, Hoàng Mười, Tạ Đình Hiển, Thăng
Bình, Chu Phương Đới, Trần Quân Lập, Trần Cừ, Trần Can, Văn Phác, Lê
Trọng Tấn, Trần Độ, Nguyễn Bàng, Sáu Khâm, Nguyễn Thế Bôn, Lê Xuân
Lựu, Năm Phòng, Ba Hồng, Ba Vũ, Hoàng Thế Thiện, Lê Văn Tưởng, Chín
Mây, Lê Nam Phong, Út Liêm, Ba Đình (Su), Sáu Thượng, Năm Sài Gòn,
Ba Cúc, Tư Thanh, Ba Trân, Năm Đàn, Sáu Tăng, Sáu Hưng, Trần Kính,
Tư Nguyện, Sáu Phát, Hai Phong, Bảy kính, Bảy Tuyết, Hai Tuyến, Út
Minh, Ba Ngoan, Đoàn Đức Thái, Sáu Chèo, Hai Lẹ, Kim Dung. Nhớ các
chiến sĩ Nguyễn Văn Minh cắm cờ “Quyết chiến quyết thắng” lên nóc hầm
tướng Đờ Cát ở Điện Biên Phủ, chiến sĩ Nguyễn Văn Hoan cắm cờ “Quyết
chiến quyết thắng” lên nóc nhà tỉnh trưởng Phước Long.
Bởi những địa danh ấy, những đồng chí, đồng đội ấy đã gắn bó máu thịt
trong những ngày gian khổ ác liệt và cũng đầy hứng khởi hào hùng; đã sưởi
ấm tình cảm tôi, nâng bước tôi đi để cùng các anh các chị hoàn thành nhiệm
vụ, góp phần mình vào sự chuyển động của lịch sử dân tộc trong sự nghiệp
giữ nước vĩ đại, để có được ngày tươi sáng hôm nay.