cuối tuần,khi đi rình rập cho Manfred.
“Giờ đến nón!” Olivia nói,mở một cái tủ dán nhãn “1900-2000. Mũ.
Nam”. Một bức tường mũ hiện ra bên trong tủ.
Charlie nhào tới giúp. Nhưng chiếc mũ lưỡi trai của Asa không có trong
đám mũ quả dưa,mũ phớt,mũ vải,mũ pamana,và hằng hà mũ quân đội treo
trước mặt chúng.
Olivia mở cánh tủ thứ hai. “Á,có cơ may hơn”,con nhỏ tuyên bố,đảo
khắp hàng mũ bị nhậy cắn lam nham.
Charlie vồ lấy một chiếc mũ vải tuýt cũ mèm lủng nhiều lỗ bên trong.
“Của Asa!”. Nó la lên. “Tớ biết cái này”.
Chúng quyết định không kiếm giày làm gì. Vả lại,đống giày bốt đen
trông cái nào cũng giống cái nào. Charlie mở nắp một thùng thiếc đề “Râu
quai nón,vân vân” lên,nhưng có nhiều bộ râu quá để mà lựa. Sau đó nó đọc
nhãn trên một cái tủ đề “Mặt nạ”,liền ngó xem. Bên trong đeo mặt nạ đủ
chủng loại:mặt thú vẽ,sáng lấp lánh,đen thui,trắng bợt,sọ người,chú hề,các
loại ma,ma cà rồng,quái vật.
“Chao ôi!” Fidelio kích động quá,nó giật ra một chiếc mặt nạ đỏ
tươi,lông mày đen và miệng vàng chóe. “Đây là tất cả những gì anh cần.
Một vở nhạc kịch mặt nạ. Anh sẽ viết một vở cho coi.”
Hai đứa kia giúp anh chàng chọn thêm mười chiếc mặt nạ nữa-ba con
thú,hai con quái vật,một mặt người trắng,buồn thiu,một ông đầy mụn
cơm,hai cái vàng óng và một cái đen sì có đôi mắt viền vàng. Cái cuối cùng
này gợi Charlie liên tưởng tới bức tượng ngồi tùm hụp trong tiền sảnh. “Tụi
mình ra khỏi đây mau”, nó giục giã.
Tiếng tù và rúc lên đúng lúc chúng leo lên tới sân khấu. Charlie cuộn áo
khoác và nón thành một nùi chặt và kẹo dưới nách. Nó nhìn những bậc