của mình nếu đặt ra bất kì câu hỏi nào. Tận tới vài ngày sau, họ mới thắc
mắc liệu các Cha có thể khiến Đức Mẹ hay Thánh Joseph bước từ đế tượng
xuống được chăng.
Cô em họ thành hôn tại đồn điền, trong căn nhà trệt xinh xắn còn bỏ trống
mà tôi để người Somali sử dụng cho dịp này. Lễ cưới rất lộng lẫy, kéo dài
bảy ngày. Tôi tham dự buổi lễ chính, khi một đám rước phụ nữ, đồng thanh
ca hát, dẫn cô dâu tới đám rước của cánh mày râu cũng đang hòa giọng đưa
chú rể tới gặp cô. Cho đến lúc ấy, cô gái chưa từng trông thấy vị hôn phu,
và tôi tự hỏi liệu em có mường tượng anh ta trong hình ảnh Đấng tối
thượng của Thorvaldsen, hay ngoài hình bóng thiên giới ấy, em còn mẫu
hình trần thế nào từ tiểu thuyết diễm tình. Trong tuần đó, tôi lái xe tới căn
nhà mấy bận nhưng bất kể tới giờ nào, tôi cũng bắt gặp ngôi nhà rộn rã
cuộc sống hội hè và ngát mùi hương trầm hôn lễ. Vũ điệu múa kiếm, cũng
như các điệu nhảy tuyệt vời khác của cánh phụ nữ, với cả vòng người lắc
lư; những giao dịch gia súc có giá trị lớn được các bô lão gút lại, súng nổ
và nhộn nhịp lừa xe từ thành phố tới rồi đi. Đêm xuống, dưới ánh đèn bão
treo ngoài hiên, những màu nhuộm yêu kiểu nhất của vùng đất Ả Rập và
Somali nối tiếp nhau vào ra căn nhà cũng như các cỗ xe: hồng tía, đỏ mận,
nâu đỏ Sudan, hồng Bengale và đỏ Saffranine.
Ahamed, cậu con trai Farah mà mọi người thường gọi là Saufe, nghĩa là
một cái cưa, chào đời ở đồn điền. Trong tim nó chẳng có tí nhút nhát nào ở
trẻ Kikuyu. Từ khi còn tí xíu, tã quấn kín mít tới tận cái đầu đen tròn xoe
nên chẳng còn thấy người đâu mà nom chỉ như một quả đấu, nó đã ngồi
thẳng thơm và nhìn vào tận mặt bạn: cơ hồ bạn đang bế một chú ưng nhỏ,
hay đặt trên đầu gối mình một chú sư tử con vậy. Ahmed thừa hưởng từ mẹ
cái tươi hơn hớn, và khi có thể chạy quanh, nó trở thành cậu bé vui nhộn,
ưa mạo hiểm, có ảnh hưởng lớn giữa đám trẻ đồn điền.