1
Thời kì khốn đốn
Đồn điền của tôi nằm hơi quá cao nên khó trồng cà phê. Vào những tháng
trời lạnh, có sương muối đọng ở chỗ trũng thấp và tới buổi sáng chồi lá
cùng quả non sẽ bị đổi sang màu nâu thẫm rồi héo úa đi. Từ thảo nguyên
gió lại thổi ào ào vào, và ngay cả những năm mưa thuận gió hòa, chúng tôi
cũng chẳng đời nào đạt được sản lượng tương đương các trại ở khu vực
thấp hơn như Thika hay Kiambu, địa phương có cao độ chỉ bốn ngàn bộ.
Vùng Ngong cũng ít mưa. Đã ba lần chúng tôi trải qua hạn hán thực sự
nghiêm trọng và lâm vào tình cảnh hết sức lao đao. Năm lượng mưa đạt
một ngàn hai trăm năm mươi mi li mét, chúng tôi thu hoạch tám mươi tấn
cà phê, còn năm mưa đạt ngàn tư mi li mét, thu hoạch tròm trèm chín chục
tấn; tuy nhiên ở hai năm thất bát lượng mưa chỉ sáu trăm ba thậm chí năm
trăm mi li mét thành thử sản lượng vỏn vẹn còn mười sáu, mười lăm tấn và
đấy là những năm thảm khốc ở đồn điền.
Cũng thời điểm này cà phê lại mất giá: trước kia một trăm bảng một tấn thì
nay chỉ còn sáu bảy chục. Đồn điền lâm vào tình trạng khốn đốn. Chúng tôi
không cách nào trang trải các khoản nợ, và chẳng có tiền vận hành đồn
điền. Họ mạc nắm giữ phần hùn ở chính quốc viết thư sang yêu cầu tôi bán
đồn điền.
Tôi đã nghĩ trăm phương nghìn kế ngõ hầu cứu vãn tình thế. Có năm tôi thử
trồng lanh trên phần đất dư thừa. Trồng lanh rất thú nhưng đòi hỏi kĩ năng
và kinh lịch. Một dân tị nạn người Bỉ cố vấn cho tôi trong chuyện này hỏi
diện tích trồng dự kiến là bao nhiêu và lúc tôi đáp ba trăm mẫu thì anh này
la lên: “Thưa bà, điều đó bất khả
.” Anh ta bảo có thể trồng thành công
trên diện tích năm, thậm chí mười mẫu, tuy nhiên chỉ vậy thôi. Trồng mười
mẫu chẳng thấm tháp gì nên tôi quyết định đầu tư một trăm rưởi mẫu. Cánh