chương, giáo dục, triết học và đạo đức không còn hiện hữu, điển hình là Asher,
Linda và nhiều kẻ đáng ghét khác vẫn sống nhăn răng trong khi tôi đứng dưới
chân cây cầu dơ bẩn này và chuẩn bị bắn lủng sọ mình.
Có lẽ những người Do Thái chuyên săn đuổi bọn phát xít hồi thập niên 50
cũng cảm thấy như vậy, khi họ vẫn phải sống trong thành phố quỷ sau khi đã
được giải thoát ra khỏi những trại tử thần của phát xít.
Có lẽ với họ, đó mới chính là công lý.
Có lẽ lỗi là do tôi đã cho phép bản thân mình trở thành một đứa tự kỷ và dở
hơi.
Có lẽ tôi phải giết thằng Asher Beal đi mới phải. Tôi đã giận dữ như thế.
Thằng Asher đáng chết như thế.
Hay đáng lẽ tôi đã phải cứu lấy Asher ngay từ khi chuyện không hay xảy ra
với nó tức là trước khi nó biến thành quỷ?
Nhưng lúc ấy tôi chỉ là một đứa trẻ.
Chúng tôi vẫn chỉ là những đứa trẻ, và bây giờ có khi vẫn thế.
Bạn đâu thể nào trông đợi mấy đứa con nít tự cứu lấy nhau, đúng không?
Tôi đang gí gí súng vào thái dương và ấn đầu vào cái họng kim loại tròn.
Tôi cảm thấy hay hay, giống như là mát xa ấy khi tôi đẩy họng súng ngày
càng sâu vào phần thịt mềm trên sọ mình.
Giống như kiểu khẩu P-38 là một chiếc chìa khóa bằng xương mà tôi đang
cố nhét vào một cái ổ khóa cũ. Và khi lẫy khóa khớp với chìa rồi, tôi sẽ nghe một
tiếng tách và cánh cửa mở ra để tôi bước vào và được cứu rỗi.
“Xoay khóa kêu tách nào Leonard,” tôi thì thầm với bản thân mình. “Mày
chỉ phải siết ngón trỏ rồi mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Dòng tư tưởng sẽ đứt. Mọi vấn
đề sẽ dứt. Mày cuối cùng cũng được yên nghỉ.”
Tôi đang chuẩn bị bóp cò súng thì bỗng những câu hỏi lung tung bật ra trong
đầu.
Tôi tự hỏi liệu Linda có nhớ ra hôm nay là sinh nhật tôi không.
Không hiểu sao bây giờ chuyện này lại quan trọng thế và càng tự hỏi tôi lại
càng thấy rằng mình chưa thể chết khi chưa biết câu trả lời.
Tôi hạ khẩu P-38 xuống và kiểm tra hộp thư thoại trong điện thoại.
Chẳng có quái gì.
Tôi kiểm tra thư điện tử. Chẳng có gì.
Tin nhắn cũng không