vào đó một cặp gia cầm, ít trứng tươi, một khoanh phó mát làm quà cho
nhà Pericles, ngoài bánh mì và phó mát cho ông Melas và bọn trẻ. Hai chị
em phấn khởi đến độ muốn nhảy múa trên đường thay vì bước đi nếu như
không bị cái giỏ trì lại, nhưng cứ mỗi lần Daphne quá phấn khích, Dion lại
nhắc, “Coi chừng giỏ trứng đó,” còn mỗi lần Dion quên và hứng chí,
Daphne lại nói câu đó với em mình.
Bọn họ đi gần được một dặm thì đến con đường dẫn lên lưng đồi, từ trên
cao quả đồi này nhìn xuống có thể thấy cả thế giới. Ngay bên dưới chân họ
là bến thuyền của thị trấn Ambelaca, và xa xa phía trước là mặt nước xanh
lơ của vịnh lấp lánh dưới làn gió buổi sớm. Ở bên kia vịnh, bọn họ có thể
nhìn thấy những dinh thự màu trắng của bến cảng Piraeus, và xa hơn nữa là
dãy núi màu xanh lơ nơi mặt trời vừa ló dạng. Khung cảnh đó thật là xinh
đẹp đến độ bọn trẻ đều đặt giỏ xuống, cả ông Melas cũng đứng lặng người
mà nhìn ngắm.
“Những dãy núi màu xanh lơ phía xa xa Piraeus chính là những ngọn đồi
ở thành bang Athens,” ông Melas nói. “Ngọn đồi có đỉnh bằng phẳng kia
chính là ngọn đồi thần thánh Acropolis. Còn ngay dưới chỗ mình đứng
đây,” ông nói thêm, chỉ tay vào ngôi nhà màu trắng gần đỉnh đồi, trông ra
biển, “là ngôi nhà của nhà thơ Euripides, ông ấy đã từ bỏ thành phố ồn ã và
náo nhiệt để tìm một nơi trú ngụ vắng vẻ trên đảo Salamis này.”
“Thơ của ông ấy là thơ thứ thiệt hả bố?” Daphne hỏi.
“Nghe người ta nói vậy,” ông Melas trả lời, “dù bố chưa bao giờ đọc bất
cứ bài nào.”
“Con ước gì mình biết viết.” Daphne thở dài. “Cái gì cũng được, không
cứ phải là thơ! Cho dù chỉ là những lời nguyền để đeo quanh cổ gã bù nhìn
rơm cũng được. Con thích viết!”