Là một trong những vắng-mặt-câu-hỏi của bức phù điêu, Hà Nội, 72, của
Phan Vũ vậy.
Tôi nghĩ, những người yêu mến thơ Phan Vũ, đa số biết rằng, lãnh vực hay
sở trường của họ Phan là điện ảnh. Ở vị trí hàng đầu trong lãnh vực nghệ
thuật thứ bảy từ những năm cuối thập niên 1940 (thời phôi thai nền điện
ảnh Việt Nam) Phan Vũ là bằng hữu thân thiết của nhiều tên tuổi lẫy lừng
thời đó. Như Ðặng Ðình Hưng, Trần Dần, Phùng Quán... lãnh vực văn
chương; Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng... lãnh vực hội họa.
Ðề cập tới hai tên tuổi lớn của hội họa là Bùi Xuân Phái và, Nguyễn Sáng, ý
tôi muốn nhắc tới câu trả lời của nhà thơ Phan Vũ, dành cho một nhà báo ở
Việt Nam, đại ý: Trước tài năng chói lọi của họ, tác giả “Hà Nội phố”
không dám cầm cọ. Mãi tới khi bước vào tuổi 70, ông mới vẽ. Và, dư luận
ghi nhận, cũng như với thi ca, hội họa đã mở rộng cánh cửa chào đón ông.
Tựa chào đón một họa sĩ thực sự có tài.
Như thắc mắc của một số người, tôi không biết ngôn ngữ điện ảnh ảnh
hưởng tới ngôn ngữ thi ca của họ Phan? Hay ngược lại?
Theo tôi, hai bộ môn nghệ thuật, văn học này, ít nhất cũng có chung nhau
một mẫu số. Mẫu số hình ảnh. Nhưng tôi vẫn nghĩ, hình ảnh trong điện ảnh
là những liên-ảnh. Nói cách khác, ngôn ngữ điện ảnh là ngôn-ngữ-mở. Hiểu
theo nghĩa, căn bản hình ảnh này khơi mở, mời gọi hình ảnh khác.
Thí dụ, khung cửa sổ mở vào một khoảng trời u ám, vần vũ mây đen, báo
trước cho người xem hiểu rằng, hình ảnh sau đó, nhiều phần sẽ là một trận
mưa. Hay nhân vật trong phim sẽ hồi tưởng tới một quá khứ ảm đạm, buồn
bã... Chiếc cầu nối giữa hai hình ảnh hay tâm trạng, trong trường hợp này,
là khoảng trời u ám, vần vũ mây đen...
Tôi muốn gọi đó là ngôn-ngữ-mở. Trong khi ngôn ngữ của thi ca, vẫn theo
tôi, là ngôn-ngữ-khép. Hiểu theo nghĩa kiệm lời. Ít chữ.