mũi nhọn của một tên lửa đẩy nhiệt ra.
Tôi tiếp tục bò về phía Annabeth, cô đang đấu tranh một cách bất lực trong
cái kén cam thảo đỏ. Đôi mắt cô rực sáng với sự bực bội. Cô ghét bị cho ra
rìa hơn bất cứ điều gì.
“Được rồi, biểu tượng máy ảnh đâu rồi?” Setne lóng ngóng với chiếc điện
thoại của hắn. “Chúng ta phải chụp một tấm hình với nhau trước khi ta tiêu
diệt ngươi.”
“Tiêu diệt ta?” nữ thần rắn hỏi. Bà ta quất vào Setne, nhưng một cơn mưa
rào và gió đẩy bà ta lùi lại.
Tôi cách Annabeth khoảng ba mét. Lưỡi Thủy triều tỏa sáng khi tôi lôi nó
qua đống bùn.
“Cùng xem nào.” Setne vỗ vỗ chiếc điện thoại của hắn. “Xin lỗi, cái này
mới với ta. Ta đến từ Triều đại thứ mười chín. À, được rồi. Không. Ngu
xuẩn. Màn hình đã đi đâu rồi? À! Phải! Vậy những người hiện đại gọi điều
này là gì… chụp một pô?” hắn nghiêng về phía nữ thần rắn hổ mang, giữ
chiếc điện thoại của hắn với độ dài cánh tay và chụp một tấm hình. “Được
rồi!”
“Ý NGHĨA CỦA VIỆC NÀY LÀ GÌ?” Wadjet gầm lên. “NGƯƠI DÁM
CHỤP MỘT TẤM HÌNH TỰ SƯỚNG VỚI NỮ THẦN RẮN HỔ MANG
À?”
“Tự sướng!” tên pháp sư nói. “Đúng rồi! Cảm ơn. Và giờ ta sẽ lấy vương
miện của ngươi và hấp thụ tinh chất của ngươi. Hy vọng ngươi không
phiền.”
“GÌ?” Nữ thần rắn hổ mang ngẩng lên và lại nhe những cái răng nanh của
bà ra, nhưng mưa và gió giữ bà lại giống như đang đeo dây an toàn trong xe
hơi. Setne hét lên điều gì đó bằng một sự pha trộn của tiếng Ai Cập và Hy
Lạp cổ. Tôi hiểu được vài từ tiếng Hy Lạp: linh hồn và trói và có lẽ bơ (mặc
dù tôi có thể sai về từ cuối cùng). Nữ thần rắn hổ mang bắt đầu quằn quại.