quân số. Nếu không thay đổi chiến lược, Pháp khó mà cứu vãn được tình
hình ở Đông Dương. Và Navarre dần đi đến chiến lược của mình. Ông nhận
ra Đông Dương chia làm hai chiến trường khác nhau rõ rệt. Pháp sẽ tránh
chạm trán với chủ lực của Võ Nguyên Giáp trong các chiến dịch Đông Xuân
1953 - 1954 ở miền Bắc, bao gồm cả bắc Việt Nam và bắc Lào. Trong lúc đó
Pháp sẽ tăng cường lực lượng.
Navarre cũng đồng thời quyết định cho Việt Minh một đòn mới - cuộc
hành binh Atlante - để đuổi lực lượng Việt Minh khỏi các cao nguyên miền
Nam. Bằng cách đó, ông sẽ càn quét các vùng do Việt Minh kiểm soát ở
miền Trung của Việt Nam và đảo lộn kế hoạch tiến công của Võ Nguyên
Giáp ở vùng này. Sau đó ông sẽ quét sạch lực lượng Việt Minh ở miền Nam.
Navarre cũng xúc tiến mạnh việc lập thêm các đơn vị quân đội quốc gia Việt
Nam (ngụy quân) làm lực lượng phụ trợ cho quân Pháp. Đồng thời Navarre
lên kế hoạch đẩy mạnh bình định ở vùng châu thổ sông Hồng.
Sau cùng Navarre hy vọng trong Đông Xuân 1954 - 1955 sẽ có thể giao
chiến lớn để tiêu diệt chủ lực của Võ Nguyên Giáp ở miền Bắc. Sau đó là
tạo ra cơ hội thuận lợi để giải quyết cuộc chiến tranh trong danh dự. Navarre
đã trình bày kế hoạch cho cấp trên của mình trong một cuộc gặp tại Sài Gòn
ngày 16/6/1953.
Cuộc hành binh Atlante của Navarre là một đòn đánh vào chỗ trống.
Đây là cuộc đột nhập vào vùng ven biển Trung Bộ ở Tuy Hòa bên dưới
Quảng Trị dọc “con đường không vui”. Quân đội Pháp không gặp đối thủ để
giao chiến, vì Võ Nguyên Giáp đã rút hết chủ lực ở vùng này và đưa ra Bắc,
chỉ để lại lực lượng du kích nhằm quấy rối địch. Trong khi đó, ông mở nhiều
cuộc tấn công nặng nề lên cao nguyên, chiếm Kontum và tiến về Pleiku.
Cuối cùng Võ Nguyên Giáp phái Đại đoàn 316 sang Lào tiến lên Luang
Prabang. Navarre cố chặn cuộc tiến công này bằng cách điều động năm tiểu
đoàn lên Thượng Lào. Võ Nguyên Giáp đã bố trí lại lực lượng và bao vây
quân Pháp tại một điểm không xa Điện Biên Phủ. Trận giao chiến ở đây đối
với Navarre là sớm hơn kế hoạch, là tránh giao chiến với chủ lực Việt Minh