Pháp bị phục kích hoặc bị tấn công trực diện, khiến chúng không dám đi quá
xa chu vi kiểm soát vốn rất nhỏ hẹp.
Những người có trách nhiệm của Pháp hình như không nhận ra họ đã
ba lần tính sai. Một là quân số đối phương rất đông, hai là sức mạnh của các
loại pháo giữa hai bên không hề mất cân đối, ba là khả năng tiếp tế. Những
người ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ báo cáo với tướng Navarre rằng
không xa Điện Biên Phủ, Việt Minh đã cho lập ba trạm chỉ huy sở, mỗi trạm
quản lý một sư đoàn chủ lực cộng với sư đoàn thứ tư đang trên đường đến
đây. Đó không phải là lời cảnh báo đầu tiên. Ngày 11/11/1953, bảy ngày
trước khi Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, đại tá Nicot lúc đó đang phụ
trách vận tải đường không của Navarre đã viết cho Navarre rằng máy bay
sẵn có không thể thỏa mãn nhu cầu liên tục về vật liệu nặng của tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. Ngày 25/2/1954 đến lượt tướng Fay - Tham mưu
trưởng không quân - sau một chuyến viếng thăm Điện Biên Phủ đã ép
Navarre rút quân khỏi Điện Biên Phủ. Navarre tuyệt nhiên không muốn
nghe những ý kiến đó.
Võ Nguyên Giáp biết rằng nhược điểm lớn nhất của quân Pháp là khả
năng tiếp tế cho tập đoàn rất hạn chế. Đường vận chuyển tiếp tế bằng đường
bộ là không thể được, chỉ còn hai sân bay và phải dựa hoàn toàn vào đường
không. Ngay từ đầu Võ Nguyên Giáp đã khẳng định dự kiến dùng hỏa lực
pháo binh để phá hủy các đường băng hạ. Còn súng phòng không sẽ làm nốt
phần còn lại. Võ Nguyên Giáp nghiên cứu các phương án khác nhau cần lựa
chọn. Ông đắn đo suy nghĩ, cân nhắc trước khi có quyết định dứt khoát.
Đánh hay không đánh Điện Biên Phủ? Nếu đánh thì chọn cách đánh nào để
đảm bảo chiến thắng? Võ Nguyên Giáp kể: “Có hai cách: đánh nhanh thắng
nhanh hay đánh chắc thắng chắc?” Ông chọn đánh bất ngờ nhanh chóng,
“trong ba đêm và hai ngày phải dứt điểm. Chiều 25/1 sẽ nổ súng.” Sáng hôm
đó, lúc 10 giờ, Giáp họp ban tham mưu tại chỉ huy sở tiền phương gần Tuần
Giáo.