làm sai, họ phải tự kiểm điểm rồi tập lại cho đến khi nắm vững mọi chi tiết
liên quan đến vai trò và trách nhiệm của họ. Những cán bộ này sau khi được
nghe Võ Nguyên Giáp giảng giải kỹ về phương châm tác chiến mới sẽ trở về
đơn vị, đến lượt họ, lại nói lại cho cấp dưới, thực tập nhiều lần trên những
mô hình lớn như thật về các vị trí của Pháp. Vì thế khi thời điểm tấn công
đến, họ không bị bỡ ngỡ, khiếm khuyết, họ biết rõ điều gì sẽ xảy ra.
Họ thiếu các phương tiện cơ giới để đẩy nhanh tiến độ cung cấp hậu
cần, họ phải trông vào đôi vai nặng trĩu và bước chân chậm chạp của dân
công. Trong năm 1954, Việt Minh tiếp nhận một khối lượng tiếp tế của
Trung Quốc và Liên Xô lên tới 400 tấn/ngày, cần tới một số lượng lớn dân
công để chuyển ra mặt trận. Nhưng cũng chưa đủ, Võ Nguyên Giáp huy
động dân công và bộ đội sửa sang đường sá từ Trung Quốc, mở rộng các
đường mòn để đưa pháo vào vị trí, dựng các công sự pháo xung quanh Điện
Biên Phủ và đào một hệ thống hầm hào kéo dài đến tận hàng rào các công
trình phòng ngự của Pháp.
Võ Nguyên Giáp khéo léo triển khai bộ đội, đảm bảo hậu cần cho
30.000 lính tiến lên Điện Biên Phủ, chuẩn bị cho trận đánh lớn nhất trong
lịch sử kháng chiến chống Pháp. Họ vượt qua sông Đà, qua các cầu đặt
ngầm dưới mặt nước, máy bay Pháp không thể phát hiện được. Một trung
đoàn di chuyển trên 400 km đường mòn vượt qua các mỏm núi. Hàng vạn
dân công đi theo các con đường mòn quanh co trong rừng rậm và trên sườn
các vách đá thẳng đứng. Hàng vạn xe đạp thồ chuyên chở đạn đại bác. Các
khẩu pháo tháo rời được xe đạp chở từng bộ phận đưa đến vị trí tập kết và
được lắp ráp để kéo lên vị trí bắn. Sau này Võ Nguyên Giáp ghi lại một cách
hài lòng: “Bộ đội, dân công mở đường tiếp tế từ Tuần Giáo đến cách đồn
Pháp chỉ vài cây số về phía bắc [tại đây Võ Nguyên Giáp đặt chỉ huy sở tiền
phương trong suốt thời gian bao vây Điện Biên Phủ]. Họ đã vạch các con
đường qua rừng sâu, núi cao để xe kéo pháo, xây dựng các vị trí đặt pháo,
đào giao thông hào trên núi xuống, vào tận sâu trong thung lũng Mường
Thanh”.