tháng nay đã vượt quá mức trung bình năm 1964”. Không quân Mỹ càng
tăng cường số lượng phi vụ của họ thì cố gắng đưa người và hàng tiếp tế của
miền Bắc cho miền Nam càng tăng theo.
Đối với Võ Nguyên Giáp, chỉ có một cách đánh bộ binh Mỹ ở miền
Nam cần phải học đó là trực tiếp đụng đầu với chúng trên chiến trường.
Chẳng mấy chốc điều đó đã xảy ra. Ngày 26/6/1965, tướng Mỹ William C.
Westmoreland được Lầu Năm Góc cho phép sử dụng lực lượng trên mặt đất.
Hai ngày sau, 3.000 lính của Lữ đoàn Không vận 173d có một tiểu đoàn
Australia và một đơn vị không vận của quân đội Việt Nam Cộng hòa trợ lực
tiến vào vùng chiến khu D cách Sài Gòn 32 km về phía tây bắc để đi tìm
Việt Cộng. Đây là lần đầu tiên Mỹ thực hiện chiến thuật Tìm và diệt nhưng
chỉ sau ba ngày cuộc hành quân đã chấm dứt vì thất bại không gặp địch,
không tìm thấy đơn vị Việt Cộng nào cả. Nhưng Mỹ cũng có một lính chết,
chín bị thương trong đó có bốn lính Australia.
Một thử nghiệm đầu tiên về ý chí cũng như về chiến thuật của cả Võ
Nguyên Giáp và Westmoreland đã diễn ra tại trận Plei Me từ 19 đến 27/10.
Trong thời gian gần đây, các đơn vị quân miền Bắc thường tập kích các trại
lực lượng đặc biệt Mỹ ở cao nguyên. Võ Nguyên Giáp có ý định đánh chiếm
Tây Nguyên rồi từ đó tiến ra vùng ven biển miền Trung để cắt đôi Việt Nam
Cộng hòa trước khi chiếm cả miền Nam.
Võ Nguyên Giáp ra lệnh tiến công trại lực lượng đặc biệt của Mỹ ở Plei
Me cách Sài Gòn khoảng 350km về phía bắc có 400 lính miền núi cao
nguyên và 12 lính Mỹ. Khi quân Việt Nam Cộng hòa tiến lên Plei Me để đỡ
đòn cho Mỹ dưới ô bảo vệ của máy bay lên thẳng, quân phòng thủ trại Plei
Me nhờ tiếp viện của quân đội Cộng hòa và máy bay Mỹ yểm trợ đánh lui
các đợt xung phong liên tiếp của Trung đoàn 33 của Giáp. Phía đối phương
không phải là lính Việt Cộng mặc quần áo đen mà là quân đội chính quy từ
miền Bắc vào mặc quân phục kaki, đội mũ cứng ngụy trang dưới các đám cỏ
voi, trang bị bằng súng tự động AK47 của Liên Xô, đeo túi đầy lựu đạn cán
gỗ. Một số đơn vị trợ chiến có súng liên thanh 12,7 mm và súng phóng rốc