vụ thiêng liêng” của miền Bắc là giải phóng phần phía nam của Tổ quốc
thân yêu, nhưng phải làm từ từ theo các cách đánh của chiến tranh nhân dân,
mọi lực lượng nhỏ hơn đánh một kẻ thù siêu cường, sử dụng vũ khí thông
thường chống lại vũ khí hiện đại nhất”. Miền Bắc sẽ là hậu phương lớn.
Miền Nam sẽ là tiền tuyến lớn. Thắng lợi chắc chắn sẽ giành được nếu “các
lực lượng ưu tú” (chủ lực) áp dụng một chiến thuật khôn khéo. Nhưng ông
muốn trên hết là cán bộ phải có “đạo đức cách mạng”, có trình độ chiến
thuật và kỹ thuật cao và các cán bộ chỉ huy phải có khả năng chỉ huy bộ đội
chiến đấu có hiệu quả.
Lúc này, sức khỏe của Hồ Chí Minh suy giảm nhiều. Suốt năm 1969,
nhiều cơn đau tim xuất hiện nhưng không ngăn cản ông quan tâm sát sao
đến tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền “bù
nhìn” ở miền Nam. Ông mất ngày 2/9/1969. Một tuần sau lễ truy điệu trọng
thể được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình. Hàng vạn người dân khóc nức
nở đến vĩnh biệt ông. Ngồi trên lễ đài, các đồng chí lâu năm của ông: Lê
Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không cầm được nước mắt.
Sau đám tang, một chính thể tam hùng được thiết lập: Lê Duẩn kiểm
soát các công việc nội bộ đảng, Phạm Văn Đồng chủ trì công việc ngoại
giao và Võ Nguyên Giáp phụ trách mọi công việc liên quan đến quân sự và
quốc phòng.
Võ Nguyên Giáp tiếp tục chính sách giảm bớt dính líu vào chiến trường
miền Nam. Cho đến cuối năm 1969, ông chỉ cho đánh những trận nhỏ với
đơn vị nhỏ, chỉ phản kích lẻ tẻ vào những cơ sở và vị trí đối phương. Mục
đích là kéo dài chiến tranh, ngăn cản công cuộc Việt Nam hóa chiến tranh và
công tác bình định nông thôn, gây nên những tổn thất cho quân đội Mỹ và
duy trì áp lực với quân đội Sài Gòn. Chính sách này không đòi hỏi những
trận giao chiến lớn chống quân đội Mỹ. Thực ra đến tháng 12/1969, Võ
Nguyên Giáp khẳng định miền Bắc đã coi thường những nguyên tắc căn bản
của chiến tranh nhân dân và tuyên bố cần phải sửa chữa thiếu sót đó ngay cả
nếu buộc phải tạm thời trở về phòng ngự.