chủ nghĩa đế quốc và chính quyền bù nhìn tay sai, nhưng trước mắt chưa
đến lúc mở những cuộc tiến công quy mô lớn chống lại quân Mỹ”.
Năm 1969 là một năm quá độ đối với cộng sản và đối với Mỹ. Trong
lúc Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân và ra sức thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh
thì Võ Nguyên Giáp cũng tranh thủ cơ hội của năm 1969 để củng cố và tập
hợp lực lượng cho quân đội nghỉ ngơi, bù lại những tổn thất trong trận Khe
Sanh và cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chuẩn bị cho các hoạt
động tác chiến sẽ diễn ra vào năm sau, năm 1970. Về mặt chiến thuật, lực
lượng của ông có lợi thế hơn quân Mỹ và ngụy quân Sài Gòn. Quân đội của
ông có tuyến phòng thủ ổn định và xác định rõ ràng từ dọc vĩ tuyến 17.
Nhưng chính khu vực giới tuyến cũng có nhiều khe hở để quân chủ lực Bắc
Việt cùng các đoàn xe vận tải vượt qua dễ dàng. Quân đội Mỹ và Việt Nam
Cộng hòa luôn ở tư thế đề phòng. Tuy quân số đông nhưng họ buộc phải
phân tán trên một khu vực rộng để tuần tra và phòng thủ. Lực lượng của Võ
Nguyên Giáp với những vùng đất thánh an toàn nên rảnh tay hơn để hành
động. Họ có thể tập trung lực lượng bất cứ lúc nào họ muốn để triển khai
hoạt động trên toàn miền Nam. Võ Nguyên Giáp được thả sức khai thác chỗ
mạnh của ông là có tài đánh tạt sườn.
Trước đây, Võ Nguyên Giáp chỉ chú ý đến chiến trường miền Nam, nay
do phải mở rộng đường tiếp tế qua nước Lào cho căn cứ địa mới xây dựng
trên lãnh thổ Campuchia nên ông phải chú ý đến các chiến trường Lào và
Campuchia.
Trước đây, hoạt động của quân Bắc Việt ở Lào chỉ giới hạn vào việc
cùng đồng minh Pathet Lào bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh và ở
Campuchia là bảo vệ khu căn cứ - đất thánh của Việt Cộng. Nhưng đến năm
1970, Võ Nguyên Giáp chuẩn bị tiến công quân sự để đánh chiếm Nam Lào.
Ông cũng cho mở đường thủy từ địa phận Bắc Việt Nam vào Campuchia
qua sông Se Kong và Mê Kông. Nếu thành công sẽ tạo sức uy hiếp đối với
các tỉnh ở đông bắc Campuchia. Các cuộc tiến công vào Angkor Wat nhằm