Hội đồng quân sự quân khu, sau khi nghiên cứu kỹ, đã nhanh chóng phê
chuẩn kế hoạch phòng thủ mới.
Chính là chúng ta đã dựa vào phương án kế hoạch này để tổ chức đánh
trả quân phát-xít Đức nên, có lẽ, tôi sẽ kể tỉ mỉ hơn về nội dung của nó.
Biên giới quốc gia trong phạm vi quân khu trải dài 940 ki-lô-mét, do các
tập đoàn quân 5, 6, 2 và 12 phòng thủ. Trong dải của tập đoàn quân 5 (từ
Vlô-đa-va đến Crư-xtư-nô-pôn dài 170 kilô-mét) bố trí cách biên giới từ 10
đến 150 ki-lô-mét có năm sư đoàn bộ binh, quân đoàn cơ giới 22, tám tiểu
đoàn súng máy độc lập vốn là những đơn vị thuộc khu vực phòng thủ, một
trung đoàn pháo dự bị của Bộ Tổng tư lệnh, ba tiểu đoàn pháo cao xạ. Hai
sư đoàn không quân đóng tại các sân bay. Các đoàn biên phòng 90 và 98 ở
ngay biên giới.
Thiếu tướng binh chủng xe tăng M. I. Pô-ta-pốp chỉ huy tập đoàn quân 5.
Theo tôi, trong số cán bộ chỉ huy quân khu chúng tôi, đồng chí là người trẻ
tuổi nhất, có khả năng và giàu nghị lực hơn cả. Lúc chiến tranh bắt đầu,
đồng chí vừa tròn 39 tuổi. Đồng chí sinh ở vùng Xmô-len-xcơ, thời niên
thiếu làm việc ở xưởng sửa chữa tàu điện Khác-cốp. Năm 1920, gia nhập
Hồng quân, đã từng làm chiến sĩ, trung đội trưởng, đại đội trưởng kỵ binh,
theo học nhiều lớp chỉ huy và sau đó tốt nghiệp xuất sắc Học viện quân sự
mô-tơ cơ giới của Hồng quân công nông. Được huấn luyện quân sự toàn
diện và có năng khiếu khác thường, đồng chí đã tiến bộ nhanh trong công
tác. Phẩm chất chỉ huy của đồng chí nổi bật trong các trận chiến đấu ở
Khan-khin - Gôn, nơi đồng chí chỉ huy lữ đoàn xe tăng, rồi làm phó tư lệnh
một cụm quân độc lập. Năm 1940, Pô-ta-pốp được bổ nhiệm làm quân
đoàn trưởng quân đoàn cơ giới 4 mới thành lập, sau đó làm tư lệnh tập đoàn
quân 5.
Ủy viên Hội đồng quân sự tập đoàn quân là chính ủy sư đoàn M. X. Ni-
ki-ép; tham mưu trưởng là thiếu tướng Đ. X. Pi-xa-rép-xki.
Tập đoàn quân 6 phòng thủ vùng biên giới phía Nam, trên hướng Lơ-
vốp, từ Crư-xtư-nô-pôn đến Ra-đưm-nô (140 ki-lô-mét). Tập đoàn quân
gồm ba sư đoàn bộ binh và một sư đoàn kỵ binh, quân đoàn cơ giới 4, năm